Trimethoprim


Phân loại:

Dược chất

Mô tả:

Tên thuốc gốc (Hoạt chất)

Trimethoprim

Loại thuốc

Kháng khuẩn.

Dạng thuốc và hàm lượng

  • Viên nén: 100 mg; 200 mg. 
  • Dung dịch uống: 50 mg/ml. Hỗn dịch uống 50 mg/ 5ml
  • Thuốc tiêm: 20 mg/ml (dưới dạng lactat).

Dược động học:

Hấp thu

Trimethoprim được hấp thu nhanh và hầu như hoàn toàn qua đường tiêu hóa, nồng độ ở trạng thái ổn định đạt được trong vòng 2-3 ngày, nồng độ đỉnh trong máu đạt được sau 1 - 4 giờ là 1 microgam/ml sau khi uống liều 100 mg.

Phân bố

Thuốc gắn với protein huyết tương khoảng 45%. Trimethoprim phân bố trong nhiều mô và các dịch gồm thận, gan, phổi, dịch phế quản, nước bọt, thủy dịch ở mắt, tuyến tiền liệt và dịch âm đạo. Thuốc cũng phân bố vào dịch não tủy, đi qua hàng rào nhau thai và có trong sữa mẹ

Chuyển hóa

10–20% liều dùng được chuyển hóa ở gan thành các chất chuyển hóa oxit và hydroxyl hóa.

Thải trừ

Thời gian bán thải của thuốc là 8 - 10 giờ ở người lớn và ít hơn ở trẻ em, kéo dài hơn trong suy thận và ở trẻ sơ sinh. Trimethoprim đào thải chủ yếu qua thận thông qua lọc cầu thận và bài tiết ở ống thận, chủ yếu dưới dạng không đổi. Khoảng 40 - 60% liều được đào thải qua thận trong 24 giờ. Trimethoprim có thể bị loại khỏi máu qua lọc máu.

Dược lực học:

Trimethoprim là một diaminopyrimidin kháng khuẩn. Trimethoprim có tác dụng kìm khuẩn hoặc diệt khuẩn tùy thuộc vào điều kiện phát triển của vi khuẩn, thí dụ, mủ có thể làm giảm hoạt tính của trimethoprim vì sự có mặt của thymin và thymidin.

Trimethoprim là chất ức chế enzym dihydrofolat-reductase. Ái lực của thuốc đối với enzym này của vi khuẩn mạnh hơn nhiều của người. Vì vậy, thuốc ức chế sự biến đổi acid dihydrofolic của vi khuẩn thành acid tetrahydrofolic, là chất cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp của acid amino, purin, thymidin, DNA thiết yếu.

Phổ tác dụng: trimethoprim có tác dụng với nhiều  loại  vi  khuẩn gram âm và gram dương hiếu khí và một số loài động vật nguyên sinh.

Gram dương: Các chủng gram dương nhạy cảm gồm: cầu khuẩn Staphylococcus aureus, liên cầu khuẩn Streptococcus pyogenes, Str. pneumoniaeviridans streptococci. Đối với cầu khuẩn ruột, độ nhạy cảm của thuốc bị giảm khi có mặt của folat. Một số loài nhạy cảm khác như Listeria, Corynebacterium diphtheria và gram dương bacilli.

Gram âm: trong số các vi khuẩn gram âm, phần lớn vi khuẩn đường ruột nhạy cảm với thuốc. Một số chủng nhạy cảm vừa gồm: Citrobacter, Enterobacter, Escherichia coli, Hafnia, Klebsiella, Proteus mirabilis, Providencia, Salmonella, ít nhạy cảm với Serratia, Shigella và Yersinia. Một số chủng nhạy cảm khác gồm Legionella, Vibrio, Haemophilus influenzaeH. ducreyi.

Kháng thuốc: vi khuẩn kháng trimethoprim có thể do nhiều cơ chế. Trong lâm sàng, kháng thuốc thường do các dihydrofolat reductase kháng trimethoprim thông qua plasmid: các gen như vậy có thể sát nhập vào thể nhiễm sắc thông qua transposon. Kháng thuốc cũng có thể do sản xuất quá mức dihydrofolat reductase, thay đổi tính thấm của tế bào vi khuẩn, hoặc do các chủng đột biến bản chất kháng trimethoprim vì chúng phụ thuộc vào thymin và thymidin ngoại sinh để phát triển. Mặc dù lo ngại vi khuẩn kháng thuốc nhanh khi dùng trimethoprim đơn độc, nhưng chưa được chứng minh rõ ràng.

Các chủng vi khuẩn kỵ khí thường kháng thuốc ở các mức độ khác nhau như Brucella, NeisseriaNorcadia. Mycobacterium tuberculosis kháng thuốc nhưng M. marinum không kháng. Pseudomonas aeruginosae, Chlamydiaceae, Mycoplasma spp., Rickettsia spp. và xoắn khuẩn cũng kháng.

Trimethoprim cũng có một số tác dụng với Pneumocystis jirovecii và một số động vật nguyên sinh như Naegleria, Plasmodium và Toxoplasma.

Trimethoprim có thể dùng đơn độc để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, viêm tiền liệt tuyến, lỵ Shigella, nhiễm Salmonella đặc biệt là đối với phòng và điều trị nhiễm khuẩn đường niệu.

Trimethoprim có tác dụng hiệp đồng mạnh với các sufonamid vì cơ chế tác dụng có tính chất bổ sung lẫn nhau, tác động đến các giai đoạn khác nhau trong chuyển hóa folat, vì vậy thuốc có thể dùng phối hợp với các sulfonamide. Trong một vài trường hợp, dùng riêng tốt hơn phối hợp, thí dụ như đợt cấp của viêm phế quản mạn tính, trimethoprim khuyếch tán tốt vào trong màng nhày phế quản bị viêm, nhưng vẫn có tác dụng tốt, trong khi sulfamethoxazol chỉ ở trong máu, không tới được nơi nhiễm khuẩn.

Điều đó dẫn đến kết luận là, điều trị viêm phế quản mạn đợt cấp, chỉ cần dùng riêng trimethoprim. Một mặt vẫn có tác dụng, mặt khác làm giảm đáng kể tác dụng có hại của sulfamethoxazol.



Chat with Zalo