S-8184


Phân loại:

Dược chất

Mô tả:

Tên thuốc gốc (Hoạt chất)

S-8184

Loại thuốc

Thuốc chống ung thư.

Dạng thuốc và hàm lượng

Nhũ tương nano có tocopherol.

Dược động học:

Hấp thu

Khi truyền 135 mg/m2 trong 24 giờ cho bệnh nhân ung thư buồng trứng, nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) là 195 ng/mL, trong khi AUC là 6300 ng.h/mL.

Phân bố

Thể tích phân bố là 227 đến 688 L/m2 (thể tích phân bố biểu kiến ở trạng thái ổn định, truyền 24 giờ). Khoảng 89% - 98% liên kết với protein huyết tương.

Chuyển hóa

Thuốc chuyển hóa bởi hệ gan mật. Các nghiên cứu in vitro với microsome gan người và các lát mô cho thấy paclitaxel được chuyển hóa chủ yếu thành 6α-hydroxypaclitaxel bởi cytochrome P450 isozyme CYP2C8 và hai chất chuyển hóa là 3’-p-hydroxypaclitaxel; 6α,3’p-dihydroxypaclitaxel bởi CYP3A4.

Thải trừ

Khi truyền 135 mg/m2 trong 24 giờ cho bệnh nhân ung thư buồng trứng, thời gian bán thải là 52,7 giờ.

Dược lực học:

Paclitaxel là một chất chống ung thư quan trọng với một loạt các hoạt tính chống lại các khối u rắn. Tuy nhiên, các công thức chống ung thư dựa trên paclitaxel có sẵn, chẳng hạn như Taxol, có nhiều nhược điểm, bao gồm chuẩn bị thuốc tốn kém và tốn thời gian, thời gian truyền dài và các tác dụng phụ bất lợi. 

Tocosol Paclitaxel (S-8184) là nhũ tương paclitaxel gốc vitamin E, không chứa Cremophor, đã được thiết kế để khắc phục những hạn chế liên quan đến hóa trị liệu dựa trên Taxol và paclitaxel chung. Tocosol Paclitaxel là một công thức sẵn sàng để sử dụng và nó cho phép sử dụng một liều paclitaxel cho bệnh nhân trong 15 phút thay vì 3 giờ cần thiết với Taxol. Các kết quả tiền lâm sàng và lâm sàng cho đến nay cho thấy rằng Tocosol Paclitaxel có ít độc tính hơn và hiệu quả chống ung thư lớn hơn Taxol. Tocosol Paclitaxel hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm III để điều trị ung thư vú di căn.

Paclitaxel là một chất chống ung thư phân loại được chỉ định như liệu pháp đầu tay và tiếp theo để điều trị ung thư biểu mô buồng trứng tiến triển và các bệnh ung thư khác bao gồm cả ung thư vú. Paclitaxel là một chất chống vi khuẩn mới giúp thúc đẩy quá trình lắp ráp các vi ống từ các chất dimer tubulin và ổn định các vi ống bằng cách ngăn chặn quá trình khử phân giải.

Sự ổn định này dẫn đến sự ức chế sự tái tổ chức năng động bình thường của mạng lưới vi ống cần thiết cho các chức năng quan trọng của tế bào giữa các pha và phân bào. Ngoài ra, paclitaxel gây ra các mảng hoặc "bó" vi ống bất thường trong suốt chu kỳ tế bào và nhiều chỗ trống của vi ống trong quá trình nguyên phân.

Paclitaxel can thiệp vào chức năng bình thường của sự phát triển vi ống. Trong khi các loại thuốc như colchicine gây ra sự khử trùng hợp của các vi ống trong cơ thể sống, thì paclitaxel lại bắt giữ chức năng của chúng bằng cách có tác dụng ngược lại; nó siêu ổn định cấu trúc của chúng. Điều này phá hủy khả năng sử dụng bộ xương tế bào của tế bào một cách linh hoạt. Cụ thể, paclitaxel liên kết với tiểu đơn vị β của tubulin. Tubulin là "khối xây dựng" của các mictotubules, và sự liên kết của paclitaxel sẽ khóa các khối xây dựng này tại chỗ.

Kết quả là phức hợp vi ống/paclitaxel không có khả năng tháo rời. Điều này ảnh hưởng xấu đến chức năng của tế bào vì sự ngắn lại và dài ra của các vi ống (gọi là tính không ổn định động) là cần thiết cho chức năng của chúng như một con đường vận chuyển cho tế bào. Ví dụ: Nhiễm sắc thể dựa vào đặc tính này của các vi ống trong quá trình nguyên phân. Nghiên cứu sâu hơn đã chỉ ra rằng paclitaxel gây ra sự chết tế bào theo chương trình (apoptosis) trong tế bào ung thư bằng cách liên kết với một protein dừng apoptosis được gọi là Bcl-2 (bệnh bạch cầu tế bào B 2) và do đó bắt giữ chức năng của nó.

Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu của S-8184 hiện đang tạm ngưng vì kết quả nghiên cứu chưa chứng minh được lợi ích rõ rệt.



Chat with Zalo