Everolimus
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Everolimus
Loại thuốc
Thuốc ức chế miễn dịch chọn lọc
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén: 0,25 mg; 0,5 mg; 1 mg; 2,5 mg; 5 mg; 10 mg.
Viên nén phân tán: 1 mg; 2 mg; 3 mg; 5 mg.
Dược động học:
Hấp thu
Ở những bệnh nhân có khối u đặc tiến triển, nồng độ everolimus cao nhất (C max) đạt được vào thời điểm trung bình là 1 giờ sau khi dùng 5 và 10 mg everolimus hàng ngày trong điều kiện lúc đói hoặc ăn nhẹ không có chất béo. C max tỷ lệ với liều lượng giữa 5 và 10 mg. Everolimus là chất nền và chất ức chế vừa phải của Pgp.
Phân bố
Tỷ lệ giữa máu và huyết tương của everolimus, phụ thuộc vào nồng độ trong khoảng từ 5 đến 5.000 ng/ml, là 17% đến 73%. Khoảng 20% nồng độ everolimus trong máu toàn phần được giới hạn trong huyết tương ở bệnh nhân ung thư được dùng everolimus 10 mg/ngày. Liên kết với protein huyết tương là khoảng 74% ở cả người khỏe mạnh và bệnh nhân suy gan trung bình. Ở những bệnh nhân có khối u đặc tiến triển, Vd là 191 lít đối với ngăn trung tâm rõ ràng và 517 lít đối với ngăn ngoại vi rõ ràng.
Chuyển hóa
Everolimus là chất nền của CYP3A4 và Pgp. Sau khi uống, everolimus là thành phần lưu thông trong máu. Sáu chất chuyển hóa chính của everolimus đã được phát hiện trong máu, bao gồm ba chất chuyển hóa monohydroxyl hóa, hai sản phẩm mở vòng thủy phân và một chất liên hợp phosphatidylcholine của everolimus. Các chất chuyển hóa này cũng được xác định ở các loài động vật được sử dụng trong các nghiên cứu độc tính, và cho thấy hoạt tính ít hơn khoảng 100 lần so với everolimus. Do đó, everolimus được coi là thành phần chính liên quan hoạt động dược lý tổng thể.
Thải trừ
Thời gian bán thải trung bình của everolimus là khoảng 30 giờ.
Dược lực học:
Everolimus, một chất ức chế tín hiệu tăng sinh, phòng ngừa thải mảnh ghép, có tác dụng ức chế miễn dịch bằng cách ức chế sự tăng sinh tế bào T hoạt hóa kháng nguyên, do đó mở rộng thêm clon, được điều hòa bởi các interleukin đặc hiệu đối với tế bào T, ví dụ interleukin - 2 và interleukin - 15. Everolimus ức chế con đường dẫn truyền tín hiệu nội bào vốn thường dẫn đến tăng sinh tế bào khi được kích hoạt do sự gắn kết của các yếu tố tăng trưởng tế bào T vào các thụ thể. Sự ngăn chặn con đường dẫn truyền này do everolimus làm cho các tế bào bị ngừng lại ở giai đoạn G của chu kỳ tế bào.
Ở mức phân tử, everolimus tạo thành một phức hợp với protein FKBP - 12 của bào tương. Khi có sự hiện diện của everolimus thì sự phosphoryl hóa p70 S6 kinase vốn kích thích bởi yếu tố tăng trưởng bị ức chế. Vì sự phosphoryl hóa p70 S6 kinase chịu sự kiểm soát của FRAP (còn được gọi là m - TOR), phát hiện này gợi ý là phức hợp everolimus - KFBP - 12 gắn vào và do đó làm cản trở chức năng của FRAP. FRAP là một protein điều hòa chính kiểm soát sự chuyển hóa, tăng trưởng và tăng sinh của tế bào; vì vậy sự mất chức năng của FRAP giải thích cho việc ngừng chu kỳ tế bào gây ra do everolimus.