Ezogabine
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Ezogabine
Loại thuốc
Thuốc thần kinh.
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén: 50 mg, 200 mg, 300 mg và 400 mg.
Dược động học:
Hấp thu
Sau khi uống cả liều đơn và uống nhiều lần, ezogabine được hấp thu nhanh chóng với thời gian trung bình đến giá trị nồng độ tối đa trong huyết tương (Tmax) nói chung là từ 0,5 đến 2 giờ. Sinh khả dụng tuyệt đối qua đường uống của ezogabine so với liều tiêm tĩnh mạch của ezogabine là khoảng 60%.
Thực phẩm giàu chất béo không ảnh hưởng đến mức độ hấp thu ezogabine dựa trên giá trị AUC trong huyết tương, nhưng nó làm tăng nồng độ đỉnh (Cmax) khoảng 38% và làm chậm Tmax 0,75 giờ. Thuốc có thể được dùng cùng hoặc không với thức ăn.
Phân bố
Dữ liệu từ các nghiên cứu in vitro chỉ ra rằng ezogabine và NAMR tương ứng với khoảng 80% và 45% liên kết với protein huyết tương. Các tương tác có ý nghĩa lâm sàng với các thuốc khác thông qua sự dịch chuyển từ protein không được dự đoán trước.
Thể tích phân phối ở trạng thái ổn định của ezogabine là 2 đến 3 L / kg sau khi dùng thuốc qua đường tĩnh mạch, cho thấy rằng ezogabine được phân phối tốt trong cơ thể.
Chuyển hóa
Ezogabine được chuyển hóa chủ yếu qua quá trình glucuronid hóa và acetyl hóa ở người. Một phần đáng kể của liều ezogabine được chuyển đổi thành N378 glucuronid không hoạt động, các chất chuyển hóa lưu hành chủ yếu ở người. Ezogabine cũng được chuyển hóa thành NAMR, sau đó cũng được glucuronid hóa.
NAMR có hoạt tính chống động kinh, nhưng nó kém mạnh hơn ezogabine trong các mô hình động kinh. Các chất chuyển hóa phụ bổ sung của ezogabine là N-glucoside của ezogabine và một chất chuyển hóa tuần hoàn được cho là được hình thành từ NAMR. Các nghiên cứu in vitro sử dụng vật liệu sinh học ở người cho thấy quá trình acetyl hóa N của ezogabine chủ yếu được thực hiện bởi NAT2, trong khi quá trình glucuronid hóa chủ yếu được thực hiện bởi UGT1A4, với sự đóng góp của UGT1A1, UGT1A3 và UGT1A9.
Các nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy không có bằng chứng về sự chuyển hóa oxy hóa của ezogabine hoặc NAMR bởi các enzyme cytochrome P450. Do đó, dùng chung ezogabine với các thuốc ức chế hoặc cảm ứng enzym cytochrom P450 không có khả năng ảnh hưởng đến dược động học của ezogabine hoặc NAMR.
Thải trừ
Kết quả của một nghiên cứu về cân bằng khối lượng cho thấy rằng bài tiết qua thận là con đường thải trừ chính đối với ezogabine và NAMR. Khoảng 85% liều dùng được thu hồi trong nước tiểu, với thuốc gốc không thay đổi và NAMR lần lượt chiếm 36% và 18% liều đã dùng, và tổng số N-glucuronid của ezogabine và NAMR chiếm 24% liều dùng liều lượng.
Khoảng 14% hoạt độ phóng xạ được thu hồi trong phân, với ezogabine không thay đổi chiếm 3% tổng liều. Tổng số phục hồi trung bình trong cả nước tiểu và phân trong vòng 240 giờ sau khi dùng thuốc là khoảng 98%.
Ezogabine và chất chuyển hóa N-acetyl của nó có thời gian bán thải tương tự (t½) từ 7 đến 11 giờ. Độ thanh thải của ezogabine sau khi dùng thuốc tiêm tĩnh mạch là khoảng 0,4 đến 0,6 L/giờ/kg. Ezogabine được bài tiết tích cực vào nước tiểu.
Dược lực học:
Cơ chế mà ezogabine phát huy tác dụng điều trị vẫn chưa được làm sáng tỏ đầy đủ. Các nghiên cứu trong ống nghiệm chỉ ra rằng ezogabine tăng cường dòng kali xuyên màng qua trung gian của họ kênh ion KCNQ (Kv 7,2 đến 7,5).
Bằng cách kích hoạt các kênh KCNQ, ezogabine được cho là có thể ổn định điện thế màng nghỉ và giảm sự hưng phấn của não. Các nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy rằng ezogabine cũng có thể phát huy tác dụng điều trị thông qua việc tăng cường dòng điện qua trung gian GABA.