Clonidine
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Clonidine
Loại thuốc
Thuốc chủ vận chọn lọc alpha 2-adrenergic. Thuốc chống tăng huyết áp.
Dạng thuốc và hàm lượng
- Thuốc tiêm: 100 mcg/ml (10 ml).
- Hệ điều trị qua da: 0,1 mg/24 giờ (2,5 mg/3,5 cm2); 0,2 mg/24 giờ (5 mg/7 cm2); 0,3 mg/24 giờ (7,5 mg/10,5 cm2).
- Viên nén: 0,1 mg; 0,2 mg; 0,3 mg.
Dược động học:
Hấp thu
Clonidine sau khi uống được hấp thu tốt và sinh khả dụng là 75% đến 95%. Sau khi uống nồng độ đỉnh trong huyết tương và tác dụng hạ huyết áp tối đa từ 1 đến 3 giờ.
Thuốc được hấp thu qua da vùng trước ngực và cánh tay nhanh hơn các vùng khác. Sau khi dán thuốc trên da 2 - 3 ngày có thể đạt được nồng độ điều trị trong máu. Do vậy, có thể dùng dạng dán chứa Clonidine thay thế cho dạng uống.
Khi dùng dạng dán trên da tốc độ giải phóng thuốc gần như không đổi trong một tuần; sau khi bóc bỏ miếng dán, nồng độ thuốc trong huyết tương vẫn ổn định trong khoảng 8 giờ, sau đó giảm dần trong vài ngày.
Phân bố
Trong máu thuốc được gắn vào protein với tỷ lệ 20 - 40%.
Clonidine tan trong lipid nên được phân phối vào hầu hết các tổ chức trong cơ thể và có thể tích phân bố 2,1 kg nên việc loại bỏ Clonidinera khỏi cơ thể bằng thẩm tách máu sẽ không hiệu quả. Trong cơ thể thuốc được tập trung nồng độ cao nhất ở thận, gan, dạ dày - ruột. Mặc dù được phân bố vào dịch não tủy nhưng nồng độ trong não đạt được rất thấp.
Chuyển hóa
Clonidine được chuyển hóa chủ yếu ở gan tạo ra 4 chất chuyển hóa không còn hoạt tính.
Thải trừ
Clonidine thải trừ chủ yếu qua thận dưới dạng đã chuyển hóa hoặc chưa chuyển hóa. Thuốc có chu kỳ gan ruột. Ở người có chức năng thận bình thường thời gian bán thải của thuốc dao động từ 6 đến 24 giờ.
Dược lực học:
Clonidine là thuốc chủ vận chọn lọc alpha 2-adrenergic trên thần kinh trung ương, ức chế trung tâm vận mạch giao cảm ở hành não làm giảm hoạt động của hệ giao cảm ngoại vi đưa đến giảm sức cản mạch máu ngoại vi và mạch thận gây nên hạ huyết áp tâm thu, tâm trương và chậm nhịp tim.
Clonidine làm giảm tiết ở những sợi tiền hạch giao cảm của thần kinh tạng cũng như ở những sợi hậu hạch giao cảm của những dây thần kinh tim. Ngoài ra, tác dụng chống tăng huyết áp của Clonidine còn có thể thông qua sự hoạt hóa những thụ thể alpha trước si-náp, làm giảm tiết noradrenalin từ những đầu tận dây thần kinh giao cảm ngoại biên.
Tác dụng dược lý chủ yếu của Clonidine bao gồm những thay đổi về huyết áp và nhịp tim. Tuy nhiên, thuốc còn có những tác dụng quan trọng khác như giảm đau, giảm các triệu chứng khi cai các chất dạng thuốc phiện, hạ nhãn áp.
Tiêm ngoài màng cứng Clonidine có thể làm giảm đau tại các thụ thể adrenergic alpha 2 trước si-náp và sau si-náp ở cột sống do ngăn cản truyền tín hiệu đau; chỉ xảy ra giảm đau ở những vùng cơ thể được phân bố thần kinh bởi những đoạn tủy sống có đủ nồng độ gây giảm đau của Clonidine.
Do Clonidine tác dụng qua thụ thể alpha 2 ở não (ở nhân lục, locus ceruleus) nên làm giảm những triệu chứng cai thuốc xảy ra ở những người bệnh ngừng sử dụng những chất dạng thuốc phiện.