Thuốc Doxorubicin Ebewe 10mg/5ml điều trị khối u cứng, ung thư hệ tạo máu và hệ lympho (5ml)
Danh mục
Thuốc chống ung thư
Quy cách
Dung dịch - Hộp x 5ml
Thành phần
Doxorubicin
Thương hiệu
EBEWE - Ebewe
Xuất xứ
Áo
Thuốc cần kê toa
Có
Số đăng kí
VN-17426-13
0 ₫/Hộp
(giá tham khảo)Doxorubicin Ebewe 10mg/5ml là sản phẩm của EBEWE Pharma Ges.m.b.H.Nfg.KG với thành phần chính là Doxorubicin hydrocholoride. Thuốc được sử dụng để điều trị các bệnh ung thư như ung thư vú, bàng quang, phế quản, tử cung, cổ tử cung, buồng trứng,...
Cách dùng
Doxorubicin có thể dùng tiêm tĩnh mạch, truyền động mạch, truyền tĩnh mạch trong vòng 48-96 giờ hoặc bơm vào bàng quang. Thuốc không được phép tiếm vào trong khoang nội tủy sống, tiêm bắp, tiêm dưới da hoặc uống. Cần tuyệt đối tránh tiêm chệch khỏi mạch máu vì có thể gây viêm tắc mạch và hoại tử tại chỗ.
Truyền thuốc kéo dài chỉ nên chỉ định cho những trường hợp đặc biệt.
Tiêm động mạch đạt được độ tập trung thuốc tại chỗ rất cao. Hoại tử rộng có thể xảy ra ở mô bị thuốc lan vào. Do đường tiêm này nguy hiểm nên cần phải cân nhắc thận trọng. Cần có thao tác chính xác khi tiêm trực tiếp (tiêm bolus) và/ hoặc tiêm trong thời gian ngắn. Cần xác định chắc chắn kim đã vào đúng vị trí bằng cách truyền thử khoảng 5ml dung dịch truyền tiêu chuẩn (dung dịch muối đẳng trương) trước khi truyền thuốc. Nên kẹp khóa dây truyền phía trên đầu dòng của dây truyền, sau đó mới bơm Doxorubicin vào dây truyền ở vị trí bên dưới chỗ khóa để tránh Doxorubicin truyền ngược dòng trong dây truyền dịch. Tiêm chậm toàn bộ lượng dung dịch Doxorubicin vào tĩnh mạch (10-20 phút). Sau đó mở khóa dây truyền dịch để dịch truyền đẩy trôi thuốc vào tĩnh mạch tránh nguy cơ tắc mạch.
Trong trường hợp tiêm vào bàng quang nên tránh tình trạng thuốc hòa trong nước tiểu. Để giảm lượng nước tiểu xuống xấp xỉ 50ml/giờ bệnh nhân không nên uống chất lỏng 12 giờ trước khi thủ thuật điều trị tiến hành. Bệnh nhân nên thay đổi tư thế nằm mỗi 15 phút một lần trong khi đang truyền nhỏ giọt thuốc vào bàng quang.Thông thường thời gian truyền là 1 giờ.
Tiếp theo sau đó bệnh nhân nên đi tiểu.
Trước khi rút thuốc ra khỏi lọ và thực hiện tiêm thuốc, Doxorubicin nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng. Để pha loãng dung dịch Doxorubicin nên dùng nước muối sinh lý.
Nên hòa tan 50ml Doxorubicin với 30-50 ml dung dịch muối sinh lý để truyền nhỏ giọt bàng quang.
Nếu để Doxorubicin tiếp xúc với da, niêm mạc thì nên rửa chỗ tiếp xúc bằng nước, xà phòng ngay lập tức.
Liều dùng
Liều Doxorubicin phụ thuộc vào chu kỳ điều trị tương ứng, tình trạng chung của bệnh nhân và điều trị trước đây của bệnh nhân. Vì vậy số liệu sau chỉ là hướng dẫn.
Điều trị cách quãng với liều 75 mg/m2 da cơ thể mỗi 3 tuần một lần dùng một liều đơn hoặc chia thành nhiều liều nhỏ hơn tiêm trong 2-3 ngày liên tục.
Điều trị cách quãng với một liều 60 mg/m da cơ thể mỗi 3 tuần 1 lần trên bệnh nhân có suy giảm chức năng tủy xương do tuổi tác hoặc có tiền sử suy tủy xương hoặc u tân sinh xâm lấn vào tủy xương
Điều trị cách quãng liều 25 mg/m2 da cơ thể mỗi ngày (tương đương 0,6mg/kg trọng lượng cơ thể) trong vòng 3 ngày hoặc 35 mg/m da cơ thể (tương đương 0,8 mg/kg trọng lượng cơ thể) trong vòng 2 ngày cho điều trị bệnh ung thư hệ thống tạo máu, không nên để thời gian ngừng thuốc ít hơn 10 ngày.
Ở trẻ em: 10-20 mg/m2 da cơ thể, mỗi tuần một lần hoặc mỗi 2 tuần một lần, tổng liều không quá 500 mg/m2 da cơ thể.
Với những bệnh nhân không thể điều trị đủ liều vị một số lý do (tuổi, ức chế tủy xương, ức chế miễn dịch, chống chỉ định tương đối) chu kỳ điều trị sau đây được khuyến cáo cho đơn trị liệu hoặc đa hóa trị liệu).
Truyền trong thời gian dài 60 mg/m trong vòng 48-96 giờ.
20 mg/m2 da cơ thể dùng trong 3 ngày liên tiếp, mỗi 3 tuần 1 lần.
20 mg/m2 da cơ thể mỗi tuần một lần, thay thế cho điều trị với liều 60 mg/m2 da cơ thể 3 tuần 1 lần.
Bởi vì có thể xảy ra tác dụng phụ không mong muốn trên tim nên tổng liều tích lũy không được vượt quá 500-550 mg/m2 da cơ thể.
Tổng liều nên được giảm xuống còn 400 mg/m2 da cơ thể trong những trường hợp sau:
Bệnh nhân đã bị chiếu xa vùng trung thất trước đó, đã dùng trước đó hoặc đang dùng đồng thời thuốc có độc tính với tim (như cyclophosphamid, mitoxantron) hoặc những chất có liên quan (daunorubicin).
Trong trường hợp viêm miệng hoặc viêm niêm mạc, trị liệu chỉ nên tiếp tục khi các thương tổn đã lành với liều giảm xuống còn khoảng 50%.
Trong trường hợp có thay đổi trong công thức máu, có rối loạn chức năng gan và thận liều dùng nên được giảm tương ứng với kết quả xét nghiệm như sau:
Số lượng bạch cầu | Số lượng tiểu cầu | Liều Doxorubicin |
---|---|---|
≥5000/mm³ | ≥150.000/mm³ | 100% |
≥ 4000/mm³ | ≥100.000/mm³ | 75% |
≥3000/mm³ | ≥75.000/mm³ | 50% |
≥2000/mm³ | ≥50.000/mm³ | 25% |
Nếu bạch cầu ít hơn 2000 và tiểu cầu ít hơn 50.000/mm3 thì ngừng sử dụng Doxorubicin.
- Bilirubin 1,2-3 mg/100 ml: Liều 50%
- Bilirubin > 3 mg/100 ml: Liều 25%
- Creatinin huyết thanh 1,2-2 mg/100 ml: Liều 50%
Làm gì khi dùng quá liều?
Hiện tượng quá liều cấp tính có thể dẫn đến viêm niêm mạc, suy tim, loạn nhịp tim (trong vòng 24 giờ) cũng như ức chế tủy xương mà đỉnh điểm trong vòng 14 ngày. Điều trị khuyến cáo là điều trị triệu chứng viêm niêm mạc.
Các triệu chứng tim do nhiễm độc phần lớn phục hồi và tạm thời và có thể dẫn đến các thay đổi không đặc hiệu trên điện tâm đồ (giảm độ chênh ST, nhịp nhanh xoang, ngoại tâm thu).
Có thể cần đến dự phòng nhiễm trùng (kể cả dùng kháng sinh) cũng như bổ sung thay thế các thành phần tiểu thể bị ảnh hưởng trong các trường hợp có suy tủy xương.
Nhiễm độc mạn tính xảy ra như một bệnh lý cơ tim (suy tim trái) đặc biệt khi dùng liều tích lũy quá 500 mg/m2 da cơ thể, và cần điều trị triệu chứng.
Cần thực hiện siêu âm tim, đo thời gian tâm thu và chụp động mạch phóng xạ hạt nhân để chẩn đoán nhiễm độc cơ tim do tích lũy.
Suy tủy xương nặng thường là hồi phục có thể xảy ra sau 10-14 ngày điều trị. Tỷ lệ bệnh nhân bị thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu phụ thuộc liều điều trị tăng lên tiếp theo sau đó. Hoạt tính suy tủy xương tăng lên khi phối hợp với các thuốc chống ung thư nhóm kim tế bào (cytostatic) khác hoặc với xạ trị, đặc biệt nếu liều lớn hơn lần lượt là 550 mg/m2 da cơ thể và 400 mg/ m2 da cơ thể. Vì vậy cần kiểm soát chặt chẽ công thức bạch cầu, hồng cầu, tiểu cầu. Với các liều đã được đề cập, tình trạng giảm bạch cầu xảy ra thoảng qua và nặng nhất sau 10-14 ngày. Nhìn chung, tình trạng này hồi phục cho đến ngày thứ 21. Nhiễm trùng tăng trong giai đoạn giảm bạch cầu.
Cũng như các thuốc nhóm anthracycline khác, điều trị với doxorubicin có thể gây ra các thương tổn tim. Nguy cơ nhiễm độc cơ tim tăng lên khi tổng liều tích lũy vượt quá 500 mg/m2 da cơ thể ở người lớn và 400 mg/m2 da cơ thể ở trẻ em. Tránh nồng độ thuốc cao vốn thường xảy ra sau truyền tĩnh mạch liều cao thì có thể giảm được độc tính trên tim.
Giai đoạn cấp: Phần lớn trong vòng 24 giờ sau khi bắt đầu điều trị, đầu tiên là những thay đổi điện tâm đồ không phụ thuộc liều như giảm độ dài khoảng ST, nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh trên thất và nhịp nhanh thất. Phần lớn những triệu chứng trên tim có thể hồi phục hoặc có thể điều trị với các thuốc chống loạn nhịp tim. Đã có báo cáo các trường hợp hiếm gặp bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim mức độ đe dọa tính mạng trong vòng vài phút. Sau khi bệnh nhân hết rối loạn nhịp tim trị liệu có thể được tiếp tục.
Giai đoạn muộn: Nhiễm độc tim do tích lũy thuốc và phụ thuộc liều. Biến chứng muộn thường là suy tim sung huyết (suy tim trái) trong suốt thời gian điều trị hoặc có thể sau nhiều tháng hoặc nhiễu nắm sau khi điều trị đã chấm dứt (khó thở, phù tay và chân).
Bệnh cơ tim do anthracyclin kết hợp với giảm khoảng QRS, kéo dài thời gian tâm thu và giảm phân suất tổng mẫu của thất trái. Các biểu hiện này có thể phát triển nhanh và khó có thể phát hiện qua điện tâm đồ thường quy. Bệnh cơ tim đáp ứng tốt với điều trị nhưng có thể không phục hồi và gây tử vong nếu không phát hiện sớm. Khó thở, phù tay và chân có thể dẫn tới bệnh cơ tim do anthracyclin. Trước khi điều trị bằng doxorubicin nên làm các xét nghiệm điện tâm đồ, siêu âm tim và xác định được phân suất tống máu thất trái. Chức năng tim phải được kiểm tra theo dõi đều đặn trong và sau khi điều trị.
Rụng tóc có hồi phục xảy ra vào khoảng 85% số bệnh nhân.
Buồn nôn, chán ăn, co thắt dạ dày ruột, ỉa chảy là tác dụng phụ không mong muốn hay gặp nhưng dễ hồi phục.
Viêm dạ dày và viêm thực quản thường trung bình trong 5 – 10 ngày và hiếm khi dẫn đến loét. Các tổn thương viêm hệ tiêu hóa (hiếm khi dẫn đến loét).
Nước tiểu bệnh nhân có màu đỏ vào lúc bắt đầu điều trị nhưng trở lại bình thường sau 48 giờ và không có triệu chứng quan trọng nào.
Hiếm trường hợp bị tăng acid uric máu, bệnh lý thận do thuốc mà phần lớn xảy ra vào lúc bắt đầu điều trị trên bệnh nhân bị bệnh bạch cầu hoặc u lympho ác tính do sự phá hủy nhanh một số lượng lớn tế bào dẫn đến tăng acid uric huyết thanh.
Phản ứng dị ứng ban đỏ, ngứa, mày đay, sốt, run, hiếm khi shock phản vệ. Hiếm trường hợp bệnh nhân bị rụng móng, tăng sắc tố da, viêm tĩnh mạch do huyết khối, ly thượng bì, đau khớp, suy giảm miễn dịch.
Đã quan sát thấy tăng acid uric huyết trong những bệnh có tăng bạch cầu và cần điều trị bằng thuốc ức chế xanthinoxidase.
Các bệnh nhân đã từng hoặc đang điều trị phóng xạ có thể có hiện tượng tăng nguy cơ phản ứng tại chỗ ở vùng chiếu xạ (hiện tượng hồi quy): Xuất hiện lại những tổn thương do xạ trị đã lành trước đó khi dùng doxorubicin.
Phối hợp điều trị với cytarabine có thể gây viêm hoại tử đại tràng có khi có nhiễm trùng nặng.
Đã quan sát thấy vô kinh và vô tinh trùng khi phối hợp với các thuốc kim tế bào khác.
Phối hợp xạ trị có thể gây viêm da và viêm niêm mạc trên vùng xạ trị. Cũng không loại trừ được các khối u thứ phát gây ra bởi thuốc.
Tác dụng phụ không mong muốn liên quan đến đường dùng thuốc: Sau khi tiêm truyền ở các tĩnh mạch nhỏ hoặc tiêm truyền nhắc lại nhiều lẫn tại một tĩnh mạch có thể gây ra xơ cứng. Nếu tiêm doxorubicin chệch ra ngoài lòng mạch thuốc sẽ gây hoại tử mô tại chỗ nặng tại vị trí tiêm. Có thể giảm được nguy cơ viêm tĩnh mạch huyết khối tại vị trí tiêm khi các y lệnh về đường dùng thuốc được tuân thủ.
* Hiếm khi hồng ban xuất hiện dọc theo tĩnh mạch tiêm thuốc (khi tiêm tĩnh mạch quá nhanh).
Thông báo cho bác sĩ điều trị biết các tác dụng không mong muốn gặp phải trong quá trình điều trị.