Torasemide
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Torasemide dạng tiêm đã ngừng sản xuất ở Mĩ (không bị ngừng sản xuất hoặc bị thu hồi vì lí do an toàn hoặc hiệu quả).
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Torasemide
Loại thuốc
Thuốc lợi tiểu quai
Dạng thuốc và hàm lượng
- Viên nén 2,5 mg, 5 mg, 10 mg
- Thuốc tiêm
Dược động học:
Hấp thu
Torasemide được hấp thu nhanh chóng và gần như hoàn toàn sau khi uống, sinh khả dụng khoảng 80%. Nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được sau một đến hai giờ. Torasemide khi tiêm tĩnh mạch, có tác dụng lợi tiểu sau 10 phút, hiệu quả tối đa trong vòng 1 giờ.
Torasemide không phụ thuộc vào đường dùng, tác dụng lợi tiểu kéo dài 6-8 giờ sau khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch.
Thức ăn làm chậm thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương sau khi uống thuốc nhưng không ảnh hưởng đến mức độ hấp thu hoặc tác dụng lợi tiểu.
Phân bố
Hơn 99% torasemide liên kết với protein huyết tương. Thể tích phân bố biểu kiến là 16 lít. Không biết torasemide có được phân bố vào sữa hay không.
Chuyển hóa
80% torasemide được chuyển hóa qua CYP2C8 và CYP2C9 ở gan thành ba chất chuyển hóa, M1, M3 và M5 bằng cách oxy hóa từng bước, hydroxyl hóa hoặc hydroxyl hóa vòng.
Các dẫn xuất acid carboxylic là các chất chuyển hóa chính, không có hoạt tính. Chất chuyển hóa chính, M5, không có hoạt tính về mặt dược lý. Hai chất chuyển hóa M1 có tác dụng bằng 1/10 hoạt tính của torasemide, và M3 có hoạt tính ngang bằng với torasemide.
Các chất chuyển hóa khác (M2 và M4) đã được tìm thấy trong các thí nghiệm trên động vật, nhưng không phải ở người.
Thải trừ
Torasemide có 70-80% được chuyển hóa ở gan và thải trừ qua phân. Mặt khác, khoảng 20-30% liều dùng được tìm thấy trong nước tiểu.
Thời gian bán thải trung bình của torasemide là 3,5 giờ.
Tốc độ thanh thải của torasemide giảm đáng kể khi có rối loạn chức năng thận.
Dược lực học:
Torasemide là thuốc lợi tiểu quai. Tuy nhiên, ở liều thấp, cấu hình dược lực học của nó giống với nhóm thiazide về mức độ và thời gian bài niệu. Ở liều cao hơn, torasemide gây bài niệu nhanh theo cách phụ thuộc vào liều lượng với tác dụng trần cao.
Torasemide hoạt động như một thuốc lợi tiểu bằng cách ức chế sự tái hấp thu natri và clorua ở thận ở nhánh lên của quai henle. Thuốc đường uống đạt được nồng độ đỉnh trong 1 giờ đầu tiên với một hành động đỉnh cao trong vòng 2 đến 3 giờ. Hành động có thể kéo dài đến 12h.
Torasemide giảm phù và đặc biệt là cải thiện tình trạng hoạt động của suy tim bằng cách giảm tiền tải và hậu tải.
Torasemide đã được chứng minh là làm giảm thể tích dịch ngoại bào và huyết áp ở những bệnh nhân cao huyết áp bị bệnh thận mãn tính. Ngoài ra, một số báo cáo đã chỉ ra rằng torasemide có thể làm giảm xơ hóa cơ tim bằng cách giảm sự tích tụ collagen.
Hiệu ứng này được cho là có liên quan đến việc giảm aldosterone, do đó đã được chứng minh là làm giảm sản xuất enzyme procollagen loại I carboxy-end proteinase được biết là biểu hiện quá mức ở bệnh nhân suy tim.
Trong suy thận, acid hữu cơ nội sinh cạnh tranh với thuốc lợi tiểu quai về cơ chế bài tiết acid ở ống lượn gần. Do đó, liều torasemide phải được tăng lên đầy đủ trong thuốc để đạt được lượng thuốc hiệu quả tại vị trí tác dụng.