Rotigotine
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Rotigotine
Loại thuốc
Thuốc chống lại bệnh ung thư do dopaminergic.
Dạng thuốc và hàm lượng
Miếng dán thẩm thấu qua da, phóng thích kéo dài (1 mg/24 giờ; 2 mg/24 giờ; 3 mg/24 giờ; 4 mg/24 giờ; 6 mg/24 giờ; 8 mg/24 giờ).
Dược động học:
Hấp thu
Sau khi sử dụng, rotigotine liên tục được giải phóng từ miếng dán thẩm thấu qua da và hấp thu qua da. Nồng độ ở trạng thái ổn định đạt được sau một đến hai ngày dùng miếng dán và được duy trì ở mức ổn định bằng cách bôi một lần mỗi ngày trong đó miếng dán được đeo trong 24 giờ.
Nồng độ trong huyết tương của rotigotine tăng theo tỷ lệ liều trong phạm vi liều từ 1 mg/24 giờ đến 24 mg/24 giờ.
Khoảng 45% hoạt chất trong miếng dán được giải phóng vào da trong 24 giờ. Sinh khả dụng tuyệt đối sau khi thoa qua da là khoảng 37%.
Việc luân chuyển vị trí áp dụng miếng dán có thể dẫn đến sự khác biệt hàng ngày về nồng độ thuốc trong huyết tương. Sự khác biệt về khả dụng sinh học của dao động từ 2% (cánh tay trên so với bên sườn) đến 46% (vai so với đùi). Tuy nhiên, không có dấu hiệu về tác động có liên quan đến kết quả lâm sàng.
Phân bố
Liên kết in vitro của rotigotine với protein huyết tương là khoảng 92%.
Thể tích phân bố biểu kiến ở người là khoảng 84 lít/kg.
Chuyển hóa
Rotigotine được chuyển hóa ở một mức độ lớn. Rotigotine được chuyển hóa bởi N-dealkylation bởi sự liên hợp trực tiếp và thứ cấp. Kết quả in vitro chỉ ra rằng các đồng dạng CYP khác nhau có thể xúc tác quá trình N-dealkyl hóa của rotigotine.
Các chất chuyển hóa chính là sulfat và các chất liên hợp glucuronid của hợp chất gốc cũng như các chất chuyển hóa N-desalkyl, không có hoạt tính sinh học.
Thải trừ
Khoảng 71% liều rotigotine được bài tiết qua nước tiểu và một phần nhỏ hơn khoảng 23% được thải qua phân.
Độ thanh thải của rotigotine sau khi dùng qua da là khoảng 10 lít/phút và thời gian bán thải tổng thể của nó là 5 đến 7 giờ. Hồ sơ dược động học cho thấy sự thải trừ theo hai pha với thời gian bán thải ban đầu khoảng 2 đến 3 giờ.
Bởi vì miếng dán được sử dụng qua da, không ảnh hưởng đến thức ăn và các tình trạng đường tiêu hóa.
Nhóm bệnh nhân đặc biệt
Vì điều trị bằng rotigotine được bắt đầu với liều thấp và được điều chỉnh liều dần theo khả năng dung nạp thuốc trên lâm sàng để đạt được hiệu quả điều trị tối ưu, nên không cần thiết phải điều chỉnh liều dựa trên giới tính, cân nặng hoặc tuổi tác.
Suy gan và suy thận
Ở những bệnh nhân suy gan vừa hoặc suy thận nhẹ đến nặng, không quan sát thấy sự gia tăng liên quan của nồng độ rotigotine trong huyết tương. Rotigotine không được nghiên cứu ở bệnh nhân suy gan nặng. Nồng độ trong huyết tương của các chất liên hợp của rotigotine và các chất chuyển hóa desalkyl của nó tăng lên khi chức năng thận bị suy giảm. Tuy nhiên, ít có khả năng đóng góp của các chất chuyển hóa này vào các tác dụng lâm sàng.
Trẻ em
Dữ liệu hạn chế về dược động học thu được ở bệnh nhân vị thành niên bị RLS (13 - 17 tuổi) sau khi điều trị với nhiều liều 0,5 đến 3mg/24h cho thấy phơi nhiễm toàn thân với rotigotine tương tự như ở người lớn. Dữ liệu về hiệu quả/an toàn không đủ để thiết lập mối quan hệ giữa phơi nhiễm và phản ứng.
Dược lực học:
Cơ chế hoạt động
Rotigotine được cho là có tác dụng đối với bệnh Parkinson bằng cách kích hoạt các thụ thể D3 , D2 và D1 của caudate-putamen trong não.
Cơ chế hoạt động chính xác trong điều trị RLS vẫn chưa được biết rõ. Người ta cho rằng rotigotine có thể phát huy hoạt động chủ yếu thông qua các thụ thể dopamine.
Tác dụng dược lực học
Về hoạt động chức năng ở các phân nhóm thụ thể khác nhau và sự phân bố của chúng trong não, rotigotine là chất chủ vận thụ thể D2 và D3 cũng hoạt động trên các thụ thể D1, D4 và D5 . Với các thụ thể không dopaminergic, rotigotine cho thấy sự đối kháng ở alpha2B và đối kháng ở các thụ thể 5HT1A, nhưng không có hoạt tính trên thụ thể 5HT2B.