glycogen
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Glycogen là gì?
Glycogen là một đại phân tử Polysaccharide đa nhánh của Glucose, làm chất dự trữ năng lượng trong cơ thể động vật và nấm. Cấu trúc Polysaccharide đại diện cho dạng lưu trữ chính của Glucose trong cơ thể.
Glycogen được hình thành và tích trữ chủ yếu trong các tế bào của gan và cơ ở người. Trong khi nguồn dự trữ chính của cơ thể là chất béo nằm trong mô mỡ thì Glycogen là một nguồn phụ để dự trữ năng lượng lâu dài. Glycogen ở cơ chuyển hóa thành đường Glucose bởi các tế bào cơ. Glycogen ở gan chuyển hóa thành Glucose được sử dụng cho toàn bộ hệ thống cơ thể bao gồm hệ thần kinh trung ương. Lượng Glycogen dự trữ trong cơ thể phụ thuộc vào hoạt động thể chất của cơ thể, tốc độ trao đổi chất và thói quen ăn uống.
Mỗi tế bào trong cơ thể đều dự trữ Glycogen và sử dụng Glucose làm nguồn năng lượng, bao gồm cả làn da. Tuy nhiên, lượng Glycogen dự trữ trên da của bạn sẽ giảm dần khi bạn già đi. Theo thời gian, các tế bào sẽ có ít năng lượng hơn để duy trì làn da trẻ trung. Cụ thể, sự đổi mới tế bào và tốc độ thay da chậm lại có thể làm các thành phần tác động đến cấu trúc và sự dẻo dai, như Acid hyaluronic và Collagen, bắt đầu suy giảm.
Để khắc phục tình trạng này, làn da cần bổ sung Glycogen có nguồn gốc từ thực vật giống với Glycogen trong cơ thể. Khi thoa lên da, dạng Glycogen này sẽ cung cấp cho làn da thêm năng lượng một cách tự nhiên để tiếp tục hoạt động tốt.
Điều chế sản xuất
Quá trình tổng hợp Glycogen để tạo ra các hạt Glycogen mới và lưu trữ nó diễn ra như sau:
- Do Glycogen là từ Glucose tạo thành nên thức ăn giàu Carb là nguồn bổ sung Glucose tốt nhất.
- Sau khi tiêu hóa thức ăn chứa Carb, cơ thể bạn sẽ phân hủy nó thành Glucose.
- Cơ thể không thể lưu trữ Glycogen quá nhiều nên đã “đóng gói” các hạt Glycogen và đưa chúng vào gan và cơ bắp để lưu trữ.
- Khi cơ thể sử dụng hết năng lượng trong máu sẽ yêu cầu “xuất kho” lưu trữ trong gan và cơ bắp để sử dụng.
Trong lĩnh vực làm đẹp, Glycogen tự nhiên được tổng hợp bằng enzyme và được sản xuất từ tinh bột ngô, gọi là Bioglycogen. Bioglycogen được sử dụng như một thành phần trong mỹ phẩm.
Cơ chế hoạt động
Quá trình hoạt động của Glycogen xảy ra chủ yếu ở các tế bào gan. Trong cơ thể người và động vật, Glycogen là dạng dự trữ của mọi tế bào. Trong đó, gan rồi đến cơ có tỉ lệ Glycogen cao hơn cả. Ở mô gan, sự thoái hóa Glycogen để cung cấp Glucose cho chính nó và còn tạo ra một lượng lớn Glucose tự do theo máu ngoại biên để cung cấp cho các mô khác. Vì vậy, ở các thời điểm xa bữa ăn (lúc đói), sự thoái hóa Glycogen của gan có vai trò quan trọng trong sự điều hòa hàm lượng glucose trong máu.
Ở tổ chức cơ, khi tế bào hoạt động, do sự tiêu hao năng lượng nên cơ thể cần được cung cấp một lượng lớn Glucose để thoái hóa. Ngoài nguồn Glucose do máu mang đến, tế bào cơ phải thoái hóa rất mạnh Glycogen dự trữ để tạo Glucose-6-phosphat cho quá trình đốt cháy.
Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Butylene Glycol là gì?
Trong các sản phẩm mỹ phẩm, Butylene glycol là một chất lỏng có vai trò giữ độ ẩm và làm dung môi. Butylene glycol sẽ giúp cho kem thấm vào da nhanh hơn, đồng thời cũng giúp làm giảm đáng kể độ nhờn rít trên da sau khi sử dụng.
Butylene glycol có mặt trong công thức nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân, bao gồm dầu gội, dầu xả, kem dưỡng da, mỹ phẩm và nhiều loại khác. Tuy nhiên, Butylene glycol đặc biệt được ưu tiên dùng trong các sản phẩm dạng gel và trang điểm giúp lướt nhẹ nhàng trên khuôn mặt.
Có thể nói, Butylene Glycol là thành phần quan trọng trong công thức mỹ phẩm nhờ tác dụng làm giảm độ nhớt, giúp các thành phần trong sản phẩm có thể dính vào nhau, từ đó các sản phẩm trang điểm và chăm sóc da cũng trở nên lỏng và đồng đều hơn. Ngoài ra, Butylene Glycol cũng được dùng như một chất dưỡng giúp thêm một lớp mềm mại hoặc cải thiện kết cấu cho tóc/da.
Điều chế sản xuất Butylene Glycol
Butylene glycol là một thành phần phổ biến trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân, được sử dụng để giữ ẩm, giúp các thành phần không bị vón cục.
Butylene Glycol thường được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch bằng cách sử dụng acetaldehyde, có nguồn gốc từ dầu mỏ và là một chất có thể gây ung thư. Các phương pháp tổng hợp thông thường cũng sử dụng các chất xúc tác kim loại nặng nguy hại cho môi trường và yêu cầu nhiều bước phản ứng, làm tăng chất thải từ quy trình.
Sau đó, công ty Genomatica đã phát triển một phương pháp sản xuất butylene glycol từ quá trình lên men bởi E. coli bằng cách sử dụng đường tái tạo trong quy trình sản xuất một bước. Phương pháp sản xuất này loại bỏ nhu cầu về kim loại nặng và nguyên liệu dầu mỏ như acetaldehyde được sử dụng trong tổng hợp Butylene Glycol thông thường.
Cơ chế hoạt động của Butylene Glycol
Trong sản phẩm, Butylene Glycol hoạt động để thúc đẩy tăng cường khả năng xâm nhập của những thành phần khác. Vì các hoạt chất có trong kem dưỡng thường có kích thước phân tử lớn nên khó có thể thẩm thấu qua da. Trên thực tế, những thành phần có thể thấm qua da rất ít, còn phần lớn thành phần đều tích tụ trên bề mặt. Điều này không hề tốt đối với sự phát triển của da. Butylene Glycol đóng vai trò quan trọng khi giúp tăng cường sự xâm nhập vào da của các thành phần, từ đó nâng hiệu quả tổng thể của sản phẩm lên đáng kể.
Không dừng lại đó, Butylene Glycol còn có khả năng tạo độ mỏng cần thiết cho texture. Nếu bạn bôi lớp kem quá dày sẽ khiến da dễ bị bóng nhờn, gây cảm giác khó chịu. Butylene Glycol được thêm vào trong công thức để giúp khắc phục điều này, giúp da có được cảm giác thoải mái hơn. Mặt khác, Butylene Glycol cũng giúp làm giảm thời gian thẩm thấu của lớp kem trên da, tiết kiệm thời gian hiệu quả.
Ở vai trò là một dung môi, Butylene Glycol hoạt động làm cho những thành phần khác trong công thức được trộn vào nhau đều hơn, kết cấu sản phẩm nhờ đó cũng đồng nhất hơn.
Đặc biệt, Butylene Glycol còn có đặc tính dưỡng ẩm khi có thể hút độ ẩm từ không khí để cung cấp cho da. Điều này sẽ tăng cường khả năng hydrat hiệu quả ở các tế bào da. Chưa dừng lại ở đó, Butylene Glycol còn giúp hạn chế hiệu quả nếp nhăn hình thành trên da.
Cetostearyl Alcohol là gì?
Cetostearyl alcohol là một chất hóa học màu trắng, mùi nhẹ, tồn tại dưới dạng sáp, được làm từ Cetyl alcohol và Stearyl alcohol. Hai loại cồn này đều thuộc nhóm cồn béo còn được gọi là cồn mạch dài, có nguồn gốc từ thực vật như dầu dừa, dầu cọ. Cetostearyl alcohol cũng có thể được tổng hợp trong phòng thí nghiệm.
Cetostearyl alcohol chứa khoảng 65% đến 80% Stearyl alcohol và 20% đến 35% Cetyl alcohol.
Cồn béo thường có số nguyên tử cacbon chẵn với một nhóm cồn duy nhất (–OH) gắn vào cacbon cuối cùng. Sự kết hợp giữa Cetyl alcohol (có 16 nguyên tử Cacbon) và Stearyl alcohol (có 18 nguyên tử Cacbon) cho Cetearyl alcohol có 34 nguyên tử cacbon với công thức phân tử là C34H72O2.
Tên Cetostearyl alcohol cũng xuất hiện dưới các tên khác như: Cetearyl alcohol; (C16-C18) Alkyl alcohol; Alcohols, C1618; Cetyl/ Stearyl alcohol, 1-octadecanol, trộn với 1-hexadecanol.
Ngoài Cetostearyl alcohol, một số cồn béo khác cũng được sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm như Cetyl, Lanolin, Oleyl và Stearyl.
Về mặt lý thuyết, Cetostearyl alcohol có thể được sử dụng trong bất kỳ loại mỹ phẩm nào dùng để thoa lên da hoặc tóc và thường được tìm thấy trong các loại kem dưỡng da, kem dưỡng ẩm, dầu dưỡng ẩm và dầu gội đầu. Khi được sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm, Cetostearyl alcohol hoạt động như một chất nhũ hóa và cũng là chất ổn định, ngăn cản các thành phần trong sản phẩm bị tách ra, nhất là sau một thời gian dài không sử dụng.
Thành phần này không tan được trong nước và tan nhiều trong trong các dung môi hữu cơ như Ete, Chloroform, Benzen…
Điều chế sản xuất
Cetostearyl alcohol được sản xuất bởi nhiều phương pháp như ester hóa hoặc hydrogen hóa của các acid béo. Chất này cũng có thể sản xuất bằng xúc tác hydrogen hóa chất béo trung tính thu được từ dầu dừa hoặc từ mỡ động vật, sau đó được tinh chế bằng phương pháp cất hoặc kết tinh.
Cơ chế hoạt động
Cetostearyl alcohol tạo độ đặc và độ gel cho sản phẩm. Chất này phân tán các nguyên liệu có trong thành phẩm, tạo thành một khối đồng nhất và loại bỏ hiện tượng tồn đọng ở nhiều dạng khác nhau.
Trong mỹ phẩm, hóa chất này còn hoạt động như một chất làm mềm, tạo độ ẩm và chất làm giảm mùi của một số chất khác trong hỗn hợp. Cetyl alcohol với công thức C16H34O giúp các thành phần khác như Retinol và vitamin C thẩm thấu nhanh vào da. Đồng thời, chất này tạo một lớp bảo vệ giúp ngăn ngừa mất nước từ da, làm mềm, giữ ẩm và bảo vệ da, cải thiện độ nhờn, kiềm nhờn cho da.
Các loại cồn béo như Cetostearyl alcohol không có tác hại xấu đến làn da như các loại cồn khác do cấu trúc hóa học của chúng. Thành phần hóa học của cồn Cetostearyl gồm nhóm cồn (-OH) được gắn vào một chuỗi hydrocacbon (chất béo) rất dài. Tính năng này cho phép cồn béo giữ nước và mang lại cảm giác nhẹ nhàng cho da. Hóa chất làm cho da mịn màng và mềm mại hơn. Để làm được điều này, cồn béo nói chung và Cetostearyl alcohol đã hình thành một lớp dầu trên cùng của da để giữ độ ẩm sâu bên trong.
Sucrose là gì?
Sucrose còn được gọi là saccharose, là sản phẩm được tách ra từ cây mía và củ cải. Quy trình tiếp theo sẽ tiến hành làm tinh khiết và kết tinh, có vai trò cung cấp năng lượng cho cơ thể, có nhiều trong mía. Ở một số loại thực vật tự nhiên khác như thốt nốt, mật ong, trong một số loại trái cây người ta cũng tìm thấy sucrose. Nguồn gốc hình thành sucrose từ trong thực vật chứ không phải từ các sinh vật khác.
Sucrose là một disaccarit được tạo thành từ một là glucose và fructose. Cả hai loại đường liên kết với nhau bởi liên kết 1,2 glucoside. Sucrose còn có nhiều tên gọi khác nhau: Sucroza, saccarôzơ, đường kính, đường thốt nốt, đường mía, đường ăn, đường phèn, đường cát, sucrose pure,…
Công thức hóa học của Sucrose là C12H22O11.
Cấu tạo phân tử
Trong phân tử sucrose gốc – glucose và gốc – fructose liên kết với nhau qua nguyên tử O giữa C1 của glucose và C2 của fructose (C1 – O – C2).
Không còn nhóm OH hemiaxetal không có khả năng mở vòng.
Điều chế sản xuất
Vì sucrose có đột ngọt cao nên dùng làm chất tạo ngọt thực phẩm phổ biến nhất các tổ hợp của các thành phần chức năng. Có nơi người ta đã thay thế nó bằng các chất tạo ngọt khác như các si-rô fructose như ở Mỹ.
Loại đường được đánh giá là quan trọng nhất chính là sucrose, trong thực vật và có thể tìm thấy trong nhựa libe. Loại đường này được tách ra từ mía đường hay củ cải đường quy trình sau đó là làm tinh khiết và kết tinh. Ngoài ra việc sản xuất sucrose ở quy mô thương mại khác còn có lúa mì ngọt, Acer saccharum và thốt nốt (Borassus spp.).
Trong chế biến thực phẩm, sucrose do nó vừa là chất tạo ngọt vừa là chất dinh dưỡng. Sucrose là thành phần quan trọng trong nhiều loại thực phẩm như bánh bích quy, kẹo ngọt, kem và nước trái cây, hỗ trợ trong bảo quản thực phẩm.
Cơ chế hoạt động
Sacrosidase là một [beta]-fructofuranoside fructohydrolase thủy phân sucrose. Không giống như sucename-isomaltase ở ruột người, sucrose không có hoạt tính với oligosacarit chứa 1,6 liên kết glucosyl.
Sucrose là 1 disaccharide nên nó phải được chia nhỏ trước khi cơ thể tiêu hóa. Nhờ enzym trong miệng phân hủy 1 phần đường sucrose thành glucose và fructose. Việc tiêu hóa đường chủ yếu được diễn ra ở ruột non. Khi Enzyme sucrase được tiết ra bởi lớp niêm mạc ruột non sẽ giúp phân tách sucrose thành glucose, fructose và hấp thụ vào máu.
ODA White là gì?
ODA White là Axit octadecenedioic ra đời bởi vì các nhà khoa học đang tìm kiếm một giải pháp thay thế hiệu quả cao hơn cho axit azelaic, một hoạt chất nổi tiếng được sử dụng cho mụn trứng cá, bệnh trứng cá đỏ và tăng sắc tố.
Axit azelaic được tìm thấy trong ngũ cốc, lúa mạch và lúa mạch đen, thường được sử dụng do chi phí thấp, mặc dù thực tế là các tác dụng phụ có thể bao gồm châm chích, bỏng rát, ngứa, ngứa ran, khô hoặc bong tróc da - có thể do nồng độ cao cần thiết (lên đến 20%) để trị mụn chẳng hạn.

Công thức hoá học của ODA White
O.D.A. White là thành phần làm sáng da với cơ chế hoạt động mới ức chế toàn bộ con đường chuyển hóa tổng hợp melanin từ nhân của tế bào hắc tố, phù hợp để điều trị các rối loạn sắc tố da như tàn nhang, nám, tăng sắc tố và da tối màu.
Điều chế sản xuất
ODA White có nguồn gốc từ hạt hướng dương và rất giống với axit Azeliac về cấu trúc phân tử của nó.
Axit octadecenedioic. O.D.A white hoạt động như một chất dưỡng da, làm sáng và trắng da, thu được bằng cách lên men sinh học từ axit oleic tự nhiên và thực vật.
Cơ chế hoạt động
Không giống như hầu hết các chất làm sáng da khác, ODA White không hoạt động bằng cách ức chế hoạt động của tyrosinase mà hoạt động bằng cách liên kết với thụ thể kích hoạt chất tăng sinh peroxisome (PPAR). Kết quả là, nó có thể thúc đẩy sự biệt hóa của các tế bào sừng, các tế bào chính trong lớp biểu bì.
ODA White được biết là có hoạt tính gấp 50 lần so với axit azelaic trong việc ức chế sự phát triển của vi khuẩn propionibacterium.
Acrylic Acid Copolymer là gì?
Acrylic Acid Copolymer còn có tên gọi khác là Ethylene, Glycerin Acrylate. Đây là một loại Polymer và là nguyên liệu chính để tạo thành Hydrogel (tên thương mại là Lubrajel) có tác dụng dưỡng ẩm tương tự như hoạt chất Glycerin. Ngoài khả năng hút ẩm và giữ nước cho da, đây cũng là một thành phần có khả năng tạo độ mềm mịn trên bề mặt da tương tự như tác dụng của tất cả các thành phần Polymer khác.
Thành phần này có xuất xứ từ Ấn Độ, tồn tại ở dạng bột mịn màu trắng, không phân hủy ở nhiệt độ cao.
Điều chế sản xuất
Acrylic Acid Copolymer là phân tử lớn được lập lại từ các tiểu phân tử nhỏ là Polyacrylic Acid và Glycerin.
NADH có trong tất cả các tế bào sống. Đây là một sản phẩm giáng hóa nicotinamide adenine dinucleotide, được tạo ra từ niacin, vitamin B.
Là một coenzyme, NADH có khả năng thúc đẩy các enzyme trong cơ thể phân hủy thực phẩm và biến thành năng lượng dưới dạng adenosine triphosphate (ATP). NADH tham gia vào nhiều phản ứng sinh hoá, do đó không có gì ngạc nhiên khi nó rất cần thiết cho sự phát triển của mọi tế bào trong cơ thể.
Đồng thời, NADH còn là chất mang điện tử chính trong quá trình sản xuất năng lượng. NADH được các nhà khoa học đánh giá là một chất chống oxy hóa mạnh nhất nên nó sẽ giúp bảo vệ tế bào khỏi bị hư hại hiệu quả.
Cơ chế hoạt động
NADH có vai trò tặng điện tử cho chuỗi vận chuyển điện tử. Coenzyme này hoạt động như một chất mang điện tử, mang các điện tử được giải phóng từ các con đường trao đổi chất khác nhau đến quá trình sản xuất năng lượng cuối cùng, tức là chuỗi vận chuyển điện tử. NADH tặng electron bằng cách cung cấp một phân tử hydro cho phân tử oxy để tạo ra nước trong chuỗi vận chuyển electron.
Tinosorb M là gì?
Cách đây vài năm, các sản phẩm chống nắng có chứa Tinosorb đã rất phổ biến tại Châu Âu, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc. Các thành phần Tinosorb S, Tinosorb S Aqua và Tinosorb M thuộc nhóm Tinosorb đều là những chất chống nắng phổ rộng, có tác dụng hiệu quả với UVB, UVA1 và UVA2.
Tinosorb M hoặc gọi là Bisoctrizole có tên khoa học là Methylene bis-benzotriazolyl tetramethylbutylphenol với công thức hóa học C41H50N6O2, có thể tan trong nước khá tốt, tương tự với dầu. Nếu sản phẩm chống nắng không được nhà sản xuất ghi rõ chữ Tinosorb trên bao bì, bạn có thể tìm trong bảng thành phần tên khoa học Methylene Bis-Benzotriazolyl Tetramethylbutylphenol hoặc Bisoctrizole.
Tinosorb M là một thành phần chống nắng hóa học, gốc nước, lên da nhẹ nhàng và không gây bóng dầu như Tinosorb S (thành phần chống nắng gốc dầu). Có tính ổn định rất cao, đồng thời lại mang những đặc tính như thành phần chống nắng vật lý nhưng ưu việt hơn:
Tinosorb M lưu lại lớp màng trắng nhẹ, mỏng, sáng da không gây dày bí.
Chất này có phổ chống nắng rất cao, hình thành màng chắn tia UVA1, UVA2, UVB đồng thời phản xạ tia UV rất hiệu quả, ngăn chặn sự xâm nhập của tia UV lên làn da mỏng manh.
Tinosorb M là một bộ lọc tia cực tím tổng hợp ở dạng các hạt nano.
Tinosorb M có kết cấu tốt hơn các bộ lọc khoáng như Zinc oxide và nhẹ nhàng hơn các bộ lọc tổng hợp truyền thống như Oxybenzone.
Theo các nghiên cứu, Tinosorb M có thể được xem là lai giữa chống nắng hóa học và vật lý, bao gồm khả năng che chắn da khỏi tia UV, đồng thời lại hấp thụ và loại bỏ một phần năng lượng của tia UV, biến chúng thành những dạng năng lượng thấp hơn.
Với khả năng này, Tinosorb M sẽ bảo vệ các tế bào da, các cấu trúc collagen, elastin và DNA khỏi tác hại của các loại tia cực tím, ngăn chặn quá trình tăng sinh Melanin từ đó ngừa dấu hiệu lão hóa, nám da và những bệnh lý nguy hiểm như ung thư da.
Cơ chế hoạt động
Nhờ kích thước phân tử lớn, Tinosorb M khó hấp thu qua da nên cũng không gây kích ứng cho da nhạy cảm.
Về tác dụng, Tinosorb M hấp thụ bước sóng 290-410nm, nghĩa là toàn bộ UVB, UVA 2, UVA 1.
Về hiệu quả, từ bước sóng 290 - 370 mn, khả năng hấp thụ của Tinosorb M thấp hơn khá nhiều chất với những bức xạ dưới 370 nm.
Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy thành phần này không ảnh hưởng gì đến hệ thống nội tiết trong cơ thể. Đây là điểm mạnh với một chất chống nắng hóa học.
Được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, succinic acid (axit succinic) là một loại axit hữu cơ no 2 chức, tồn tại ở dạng tinh thể màu trắng, không mùi.
Ngoài cái tên axit succinic, người ta còn gọi loại axit này là axit hổ phách. Hổ phách là một loại vật liệu quý quen thuộc, dù vậy đặc tính của axit hổ phách (được chiết xuất lần đầu từ hổ phách nên có tên này) lại chưa được nghiên cứu sâu.
Succinic acid được tìm thấy tự nhiên trong hổ phách và mía. Với mục đích thương mại, axit succinic được dùng trong lĩnh vực chăm sóc da cũng như được sử dụng rất tích cực trong lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm cho các mục đích khác nhau.
Trong chăm sóc da, succinic acid acid có thể dùng kết hợp cùng hyaluronic acid để mang lại hiệu quả đáng kể trên da, cụ thể như bổ sung dưỡng ẩm, nâng da và làm mịn vẻ ngoài da. Ngoài ra, sự kết hợp này còn có tác dụng tẩy tế bào chết cũng như làm giảm chứng tăng sắc tố da sau thời gian sử dụng.
Ở khía cạnh sức khỏe, do là một chất chống oxy hóa mạnh, axit succinic có khả năng giúp phục hồi hệ thần kinh và hỗ trợ cho hệ miễn dịch, bù đắp lại sự thiếu hụt năng lượng của cơ thể và bộ não, nâng cao sự nhận biết, tập trung, khả năng phản xạ và giảm căng thẳng.
Điều chế sản xuất
Trong lịch sử, bằng cách chưng cất hổ phách mà người ta thu được succinic acid. Bên cạnh đó, loại axit này còn được sản xuất từ dầu mỏ nhưng phương pháp này rất tốn kém cũng như gây tác động tiêu cực tới môi trường.
Về sau, các nhà khoa học đã nghiên cứu sản xuất axit succinic bằng công nghệ sinh học. So với các phương pháp truyền thống, phương pháp mới này chi phí thấp hơn 20% cũng như thân thiện môi trường hơn.
Quá trình sản xuất axit succinic theo công nghệ sinh học sẽ dùng nguyên liệu glucoza (đường gluco) - được tìm thấy từ quá trình chiết xuất từ củ cải đường hoặc mía đường. Ngoài đường gluco, người ta còn sử dụng gỗ làm nguyên liệu vì xenluloza trong gỗ có thể được chuyển hóa thành glucoza dưới tác động của axit.
Antioxidant là gì?
Antioxidant là chất chống oxy hóa, có tác dụng làm chậm, ngăn ngừa sự phá hủy tế bào gây ra bởi các gốc tự do. Các phân tử không ổn định mà cơ thể tạo ra như một phản ứng với môi trường và các áp lực khác.
Antioxidant có thể là tự cơ thể tổng hợp hoặc được con người tạo ra. Trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật, một số chất được cho là giàu chất chống oxy hóa, chất chống oxy hóa dựa trên thực vật là một loại dinh dưỡng thực vật, hoặc chất dinh dưỡng dựa trên thực vật.
Cơ thể con người cũng sản xuất ra một số chất chống oxy hóa, được gọi là chất chống oxy hóa nội sinh. Những chất chống oxy hóa từ bên ngoài cơ thể, những chất này được gọi là ngoại sinh.
Khi cơ thể xử lý thức ăn và phản ứng với môi trường được tạo ra các gốc tự do. Khi cơ thể không thể loại bỏ các gốc tự do thì có thể dẫn đến stress oxy hóa, điều này có thể gây hại cho các tế bào và chức năng của cơ thể. Nó còn được gọi là các loại oxy phản ứng (ROS).
Những yếu tố làm tăng sản xuất các gốc tự do trong cơ thể chẳng hạn như viêm, hoặc bên ngoài, ví dụ, ô nhiễm, tiếp xúc với tia cực tím và khói thuốc lá...
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tình trạng căng thẳng oxy hóa có liên quan đến nhiều bệnh. Những căn bệnh như tim, ung thư, viêm khớp, đột quỵ, bệnh đường hô hấp, suy giảm miễn dịch, khí phế thũng, bệnh Parkinson. Ngoài ra còn các tình trạng viêm hoặc thiếu máu cục bộ khác. Chất chống oxy hóa giúp trung hòa các gốc tự do trong cơ thể chúng ta và điều này được cho là có tác dụng tăng cường sức khỏe tổng thể.
Điều chế sản xuất
Để thu được Antioxidant tự nhiên bằng một quy trình công nghiệp mới từ các loại gia vị và các loại rau khác bằng cách chủ yếu thích ứng với các phương pháp điều trị cơ học và vật lý. Vỏ hương thảo, xô thơm, ớt bột, nhục đậu khấu và ca cao đã được xử lý cơ học (vi hóa), và nguyên liệu dạng bột mịn được chiết xuất bằng dầu thực vật ăn được, tức là lạc.
Chất chống oxy hóa hòa tan trong pha lipid được thu thập bằng cách chưng cất phân tử màng rơi hai giai đoạn để tách pha lipid được tái chế) từ phần có trọng lượng phân tử thấp, hoạt động. Hoạt động chống oxy hóa được đo đối với chất béo, dầu và thực phẩm chứa chất béo bằng cách hấp thụ oxy, phân tích không gian đầu (ví dụ, pentan) mức độ của các sản phẩm phân hủy thứ cấp và đánh giá cảm quan.
Cơ chế hoạt động
Chất chống oxy hóa là chất ở nồng độ thấp làm chậm hoặc ngăn cản quá trình oxy hóa chất nền. Các hợp chất chống oxy hóa hoạt động thông qua một số cơ chế hóa học: Chuyển nguyên tử hydro (HAT), chuyển điện tử đơn (SET), và khả năng chelate các kim loại chuyển tiếp.
Ubiquinol là gì?
Ubiquinol hay còn có tên gọi là Coenzyme Q10 (CoQ10) là một chất cần thiết cho cơ thể, duy trì hoạt động cho tế bào và có đặc tính chống oxy hóa mạnh mẽ.
Coenzyme là các phân tử nhỏ không chứa protein, cung cấp vị trí chuyển giao cho một enzym hoạt động, là thành phần quan trọng góp phần tạo nên chuỗi phản ứng hóa học trao đổi chất, từ đó tạo ra năng lượng bên trong tế bào.
Tuy nhiên, tuổi tác sẽ làm giảm khả năng sản sinh ra chất này. Theo nghiên cứu, khi cơ thể thiếu Ubiquinol sẽ gây nên các vấn đề về bệnh tim mạch, bệnh Alzheimer và nguy cơ bị ung thư.
Điều chế sản xuất
Ubiquinol là một chất hóa học được cơ thể tổng hợp một cách tự nhiên và được lưu trữ trong tế bào qua các ti thế. Ti thể là bộ phận giúp sản sinh ra năng lượng để bảo vệ tế bào khỏi quá trình oxy hóa, mắc các vi rút gây bệnh hoặc nhiễm khuẩn. Khi cơ thể già đi, quá trình sản xuất Ubiquinol bị giảm, do đó, những người cao tuổi dễ bị thiếu hụt Ubiquinol.
Bằng cách bổ sung Ubiquinol thông qua nguồn dinh dưỡng và thức ăn sẽ giúp cơ thể duy trì quá trình tổng hợp ra hợp chất này.
Các nguồn thực phẩm cung cấp Ubiquinol tốt nhất bao gồm:
- Nội tạng: Tim, thận, gan.
- Cá: Cá hồi, cá thu, cá trích, cá mòi…
- Các loại rau màu xanh đậm: Súp lơ, bông cải xanh, rau bina...
- Các loại đậu: Đậu nành, đậu phộng.
- Các loại hạt: Hạt dẻ cười, hạt vừng, hạt mè…
- Trái cây: Dâu tây, cam, táo, việt quất…
- Dầu: Dầu đậu nành, dầu hạt cải…
Ubiquinol trong thịt gia cầm và cá là nguồn tự nhiên phong phú nhất, đặc biệt là trong nội tạng. Đối với người ăn chay nói riêng, nguồn cung cấp Ubiquinol có thể là đậu, các loại hạt, một số loại rau, trứng, các sản phẩm từ sữa.
Cơ chế hoạt động
Ubiquinol hấp thu chậm và xảy ra ở ruột non. Khi Ubiquinol ở dạng khử sẽ được hấp thu tốt hơn từ 3 đến 4 lần so với dạng oxy hóa, Ubiquinone. Nếu được sử dụng cùng với thức ăn, chủ yếu là với lipid (dầu mỡ), sự hấp thu của Ubiquinol có thể được tăng lên vì cấu trúc ưa mỡ của nó. Sau khi được hấp thụ bởi các tế bào ruột, Ubiquinol đi qua các mạch bạch huyết và đến huyết tương, nơi nó lưu thông liên kết với lipoprotein (LDL). Do đó, các phép đo Ubiquinol trong huyết tương phải được hiệu chỉnh theo mức lipoprotein.
ATP là gì?
Mọi sinh vật sống trên trái Đất đều cần năng lượng để hoạt động cũng như thúc đẩy quá trình trao đổi chất trong cơ thể. ATP là viết tắt của cụm từ Adenosin Triphosphat, chính là nguồn cung cấp năng lượng sinh học chủ yếu này cho cơ thể sinh vật. Nói một cách khác, ATP là phân tử mang năng lượng, chúng có chức năng vận chuyển năng lượng đến nơi mà các tế bào cần sử dụng.
Không ít người lầm tưởng rằng chất dinh dưỡng từ thức ăn chính là năng lượng sống mà chúng ta sử dụng. Thực tế thì sau khi tiêu hóa thức ăn, cơ thể sẽ dự trữ các chất dinh dưỡng dưới dạng carbohydrates (tinh bột), fat (chất béo) hay protein (chất đạm). Các chất này lại được phân giải thành hợp chất đơn giản hơn đó là glucose, acid amin, acid béo và theo đường máu vận chuyển đến các tế bào.
Tuy nhiên, các tế bào không thể trực tiếp lấy năng lượng từ những chất dinh dưỡng này. Chính vì vậy, chúng ta cần có các hệ năng lượng giúp xử lý, biến đổi chúng thành ATP. Các ATP này sẽ dự trữ và cung cấp năng lượng có thể sử dụng được cho các tế bào khi cần. Quá trình này không chỉ ra trong tất cả các loại động vật, thực vật và vi khuẩn (và ngay cả trong virus khi chúng đang di chuyển trong các vật chủ)
Trong tự nhiên, ATP chỉ có thể được tìm thấy trong một số loại thảo dược quý giá “Đông trùng hạ thảo” hay linh chi.
Điều chế và sản xuất
Cấu tạo của một ATP cơ bản bao gồm:
Adenine: Một cấu trúc vòng bao gồm các nguyên tử C, H và N.
Ribose: Một phân tử đường có 5 Carbon.
Phần đuôi với 3 phân tử phosphat vô cơ (Pi). Liên kết giữa 2 Pi cuối cùng chứa rất nhiều năng lượng. Do đó việc phân tách các phần này chính là mấu chốt của quá trình giải phóng năng lượng của ATP.
ATP có thể được tạo ra từ đường đơn và đường phức tạp cũng như từ lipid thông qua phản ứng oxy hóa khử. Để điều này xảy ra, trước tiên carbohydrate phải được phân hủy thành đường đơn, trong khi chất béo phải được chia thành axit béo và glycerol. Tuy nhiên, quá trình sản xuất ATP được điều chỉnh rất cao. Sản xuất của nó được kiểm soát thông qua nồng độ cơ chất, cơ chế phản hồi và cản trở dị ứng.
Cơ chế hoạt động của ATP
Trong môi trường ống nghiệm, khi một phân tử glucose phân tách thành CO2 và nước đồng thời sẽ giải phóng khoảng 686 kcal/mol. Năng lượng này được tỏa ra dưới dạng nhiệt năng và phải sử dụng máy hơi nước thì mới có thể chuyển thành công cơ học. Hiển nhiên điều này là không thể xảy ra trong môi trường tế bào.
Nhờ có các ATP, nguồn năng lượng phân giải này sẽ được cất trữ vào trong đó. Khi tế bào cần năng lượng, ATP sẽ được thủy phân làm gãy liên kết giữa Oxi với nguyên tử photphat cuối cùng. Kết quả quá trình này sẽ tạo ra một phân tử phosphat vô cơ (Pi), một ADP (Adenosin Diphosphat) và khoảng 7 kcal/mol năng lượng. Lúc này, ADP sẽ ngay lập tức được chuyển đổi trở lại thành ATP nhờ có enzyme ATP synthase nằm trong màng ti thể.
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Bát giác liên.
Tên gọi khác: Độc diệp nhất chi hoa, độc cước liên, pha mỏ.
Tên khoa học: Dysosma tonkinense (Gagnep.) M.Hiroe. Họ: Hoàng mộc (Berberidaceae). Chi: Bát giác liên (Dysosma Woodson.), đây là một chi nhỏ gồm 7 đến 10 loài cây thân thảo sống lâu năm.
Đặc điểm tự nhiên
Bát giác liên là cây cỏ nhỏ sống lâu năm do thân rễ, có chiều cao trung bình từ 30- 50cm.
Rễ
Bát giác liên là cây hai lá mầm nhưng có kiểu rễ chùm gồm nhiều rễ nhỏ hình sợi mọc từ thân rễ. Rễ cây phát triển thành củ mẫm, chứa nhiều tinh bột nên có màu trắng.
Rễ cây có đường kính 1,5-2,5mm, dài 30cm - 70 cm (tối đa lên tới 80cm). Bề mặt ngoài của rễ có nhiều lông rễ, màu vàng chanh sau đó chuyển sang màu nâu nhạt.
Về vi thể, mặt cắt ngang rễ Bát giác liên có hình tròn, biểu bì gồm một lớp tế bào đa giác hay h́ình gần tṛòn, được xếp tương đối đều đặn. Có các lớp mô mềm ở dưới các lớp biểu bì gồm các tế bào tròn có thành mỏng.
Thân rễ
Thân rễ Bát giác liên có hình trụ, mập, dạng chuỗi; màu vàng nâu, kích thước từ 2 - 4 cm. Trên thân rễ có những vết sẹo có khả năng phát triển thành một nhánh mới.
Về vi thể, các lát cắt của thân rễ hình tròn, cấu tạo từ ngoài vào trong bao gồm:lớp bần, mô mềm vỏ, các bó libe-gỗ. trong đó, lớp bần gồm 2-3 hàng tế bào hình đa giác. Các mô mềm vỏ cấu tạo bởi những tế bào thành mỏng, xếp lộn xộn. Các bó libe-gỗ kích thước khá đều nhau, trên mỗi bó libe-gỗ có đính 2 cụm tế bào mô cứng, 1 cụm nằm sát libe, 1 cụm nằm sát gỗ.
Lá
Lá Bát giác liên có hình dạng rất đa dạng từ dạng bầu dục không chia thùy cho đến dạng đa giác với nhiều thùy nông, từ 4 đến 9 cạnh nhưng phổ biến là 6 đến 8 cạnh. Đường kính lá khoảng 12 - 25 cm, mép lá có răng cưa nhỏ, khi non có vân.
Hoa
Hoa có màu đen trong chứa nhiều hạt, mọc đơn độc hay từng 4-12 trên 1 cuốn, có, hình trứng, đường kính khoảng 12mm. Hoa thường nở vào tháng 3 đến tháng 5.

Bát giác liên
Phân bố, thu hái, chế biến
Phân bố
Bát giác liên là cây thuốc có nhiều công dụng cho sức khỏe, khả năng tái sinh kém, nhưng đang bị khai thác quá mức nên rất quý hiếm.
Bát giác liên có phân bố ở Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây bát giác liên mọc nhiều ở những vùng núi cao, rừng ẩm như ở các tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Lai Châu.
Thu hái và chế biến
Rễ bát giác liên được thu hái vào mùa thu, đông, lá được hái vào mùa xuân, trước khi cây ra hoa, dùng tươi hay phơi khô để dùng dần. Người ta thường thu hái củ vào mùa thu đông, rửa sạch đất cát, dùng tươi hoặc đem phơi/ sấy khô.
Bát giác liên có tỷ lệ đậu quả rất thấp trong tự nhiên cũng như trong điều kiện trồng trọt nên việc sử dụng hạt làm vật liệu nhân giống là rất khó khăn; tuy vậy Bát giác liên có thể nhân giống bằng thân rễ. Do đó, Bát giác liên đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam với mức phân hạng “nguy cấp”, nên cần được nghiên cứu nhân giống và bảo tồn.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Dysosmae Versipellis; thường gọi là Quỷ cừu.
Sản phẩm liên quan