Telaprevir


Phân loại:

Dược chất

Mô tả:

Tên thuốc gốc (Hoạt chất)

Telaprevir

Loại thuốc

Thuốc điều trị bệnh gan.

Dạng thuốc và hàm lượng

Viên nén bao phim: 375 mg.

Dược động học:

Các đặc tính dược động học của telaprevir đã được đánh giá ở những đối tượng người lớn khỏe mạnh và những đối tượng bị viêm gan C. Sau nhiều liều telaprevir (750 mg mỗi ngày) kết hợp với peginterferon alfa và ribavirin ở những đối tượng chưa từng điều trị với bệnh viêm gan C mãn tính kiểu gen 1, nghĩa là (SD) Cmax là 3510 (1280) ng/mL, Cmin là 2030 (930) ng/mL và AUC 8h là 22.300 (8650) ng•hr/ml.

Hấp thu

Telaprevir có sẵn bằng đường uống, hầu hết được hấp thu ở ruột non, không có bằng chứng về sự hấp thu ở ruột kết.

Nồng độ tối đa trong huyết tương sau khi dùng một liều telaprevir thường đạt được sau 4 đến 5 giờ. Các nghiên cứu in vitro được thực hiện với tế bào Caco-2 của người chỉ ra rằng telaprevir là chất nền của P-glycoprotein (P-gp).

Tiếp xúc với telaprevir cao hơn khi dùng đồng thời peginterferon alfa và ribavirin so với sau khi chỉ dùng telaprevir.

Ảnh hưởng của thức ăn đối với sự hấp thụ qua đường miệng

Phơi nhiễm toàn thân (AUC) với telaprevir đã tăng lên 237% khi telaprevir được dùng với bữa ăn chất béo tiêu chuẩn (chứa 533 kcal và 21 g chất béo) so với khi dùng telaprevir trong điều kiện lúc đói. Ngoài ra, loại bữa ăn ảnh hưởng đáng kể đến việc tiếp xúc với telaprevir.

Liên quan đến lúc đói, khi sử dụng telaprevir với một bữa ăn ít chất béo (249 kcal, 3,6 g chất béo) và một bữa ăn nhiều chất béo (928 kcal, 56 g chất béo), thì mức phơi nhiễm toàn thân (AUC) với telaprevir đã tăng lên khoảng 117% và 330%, tương ứng.

Liều telaprevir được sử dụng trong vòng 30 phút sau khi hoàn thành bữa ăn chính hoặc bữa ăn nhẹ có chứa khoảng 20 gam chất béo trong các thử nghiệm Giai đoạn 3.

Do đó, telaprevir nên luôn được dùng cùng với thức ăn (không phải ít chất béo).

Phân bố

Trong ống nghiệm, trong khoảng nồng độ từ 0,1 µM (68 ng/mL) đến 20 µM (13600 ng/mL), telaprevir liên kết với protein huyết tương khoảng 59% đến 76%.

Telaprevir liên kết chủ yếu với alpha 1-acid glycoprotein và albumin và sự gắn kết phụ thuộc vào nồng độ, giảm khi nồng độ telaprevir tăng.

Sau khi uống, thể tích phân bố biểu kiến ​​điển hình (Vd/F) được ước tính là 252 L, với sự thay đổi giữa các cá thể là 72%.

Chuyển hóa

Telaprevir được chuyển hóa nhiều ở gan, liên quan đến quá trình thủy phân, oxy hóa và khử.

Nhiều chất chuyển hóa được phát hiện trong phân, huyết tương và nước tiểu.

Sau khi uống lặp lại, chất đồng phân R của telaprevir (hoạt tính kém hơn 30 lần), acid pyrazinoic và chất chuyển hóa trải qua quá trình giảm liên kết α-ketoamide của telaprevir (không hoạt động) được phát hiện là chất chuyển hóa chủ yếu của telaprevir.

Các nghiên cứu in vitro sử dụng đồng dạng cytochrom P450 (CYP) tái tổ hợp của người chỉ ra rằng CYP3A4 là đồng dạng CYP chính chịu trách nhiệm cho sự chuyển hóa telaprevir.

Tuy nhiên, chuyển hóa không qua trung gian CYP có thể đóng một vai trò nào đó sau khi dùng nhiều liều telaprevir.

Thải trừ

Sau khi sử dụng một liều uống duy nhất 750 mg 14C-telaprevir ở những người khỏe mạnh, 90% tổng hoạt độ phóng xạ được thu hồi trong phân, nước tiểu và không khí hết hạn trong vòng 96 giờ sau khi dùng liều.

Sự phục hồi trung bình của liều phóng xạ được sử dụng là khoảng 82% trong phân, 9% trong khí thở ra và 1% trong nước tiểu.

Sự đóng góp của không đổi 14C-telaprevir và R-diastereomer của telaprevir đối với tổng hoạt độ phóng xạ thu hồi được trong phân lần lượt là 31,9% và 18,8%.

Sau khi uống, tổng độ thanh thải biểu kiến ​​(Cl/F) được ước tính là 32,4 L/h với sự thay đổi giữa các cá thể là 27,2%.

Thời gian bán thải trung bình sau khi uống liều đơn telaprevir 750 mg thường dao động trong khoảng 4,0 đến 4,7 giờ.

Ở trạng thái ổn định, thời gian bán thải hiệu quả là khoảng 9 đến 11 giờ.

Dược lực học:

Telaprevir là một chất kháng vi-rút (DAA) tác dụng trực tiếp chống lại vi-rút viêm gan C.



Chat with Zalo