Penciclovir
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Penciclovir
Loại thuốc
Thuốc kháng virus (chất có cấu trúc tương tự nucleoside)
Dạng thuốc và hàm lượng
Dạng kem: 10mg, 1%.
Dược động học:
Hấp thu và phân bố
Không hấp thụ đáng kể vào hệ tuần hoàn sau khi bôi lên da.
Không phát hiện nồng độ thuốc trong huyết tương hoặc nước tiểu sau khi bôi 1 hoặc nhiều lần kem Penciclovir. Sự hấp thu toàn thân không được đánh giá ở trẻ em và thanh thiếu niên <18 tuổi.
Nghiên cứu trong ống nghiệm cho rằng Penciclovir thâm nhập vào da sau khi bôi kem tại chỗ. Khoảng 3% liều dùng tại chỗ được tìm thấy ở lớp sừng và lớp biểu bì.
Chuyển hóa
Được chuyển đổi in vivo thành Penciclovir Triphosphat, chất chuyển hóa có hoạt tính dược lý. Chuyển hoá trong nội bào thành triphosphat là cần thiết cho hoạt động kháng vi-rút.
Thải trừ
Thời gian bán thải nội bào của chất chuyển hóa triphosphat có hoạt tính là 10 hoặc 20 giờ ở virus HSV loại 1 hoặc 2 (HSV-1 hoặc HSV-2) lần lượt, mức độ quan trọng lâm sàng chưa rõ ràng.
Dược lực học:
Penciclovir là thuốc kháng vi-rút tương tự nucleoside; liên quan đến cấu trúc và dược lý của acyclovir.
Được chuyển đổi in vivo thành chất chuyển hóa triphosphat có hoạt tính dược lý. Penciclovir triphosphat tồn tại trong các tế bào bị nhiễm hơn 12 giờ, nơi nó ức chế sự sao chép của DNA vi rút và có thời gian bán hủy là 9 , 10 và 20 giờ trong các tế bào bị nhiễm vi rút varicella zoster, vi rút herpes simplex loại 1 và vi rút herpes simplex loại 2 tương ứng.
Ở các tế bào không bị nhiễm được điều trị bằng Penciclovir, nồng độ của Penciclovir Triphosphat hầu như không được phát hiện. Do đó, các tế bào chưa bị nhiễm bệnh khó có thể bị ảnh hưởng bởi nồng độ điều trị của Penciclovir.
Hoạt tính chống lại nhiều loại herpesviridae khác nhau, bao gồm HSV-1 và HSV-2 và virus varicella-zoster (VZV). Thuốc cũng có một số hoạt tính in vitro chống lại virus epstein-barr (EBV), nhưng chỉ có một số hoạt tính hạn chế in vivo chống lại cytomegalovirus (CMV).
Thuốc có cơ chế tác dụng kháng vi-rút đối với HSV và VZV bằng cách can thiệp vào quá trình tổng hợp DNA và ức chế sự nhân lên của vi-rút. Thuốc hoạt động như một chất ức chế DNA polymerase của virus và làm ngừng sao chép DNA của virus bằng cách cạnh tranh với deoxyguanosine triphosphate đối với DNA polymerase của virus và ức chế sự kéo dài chuỗi DNA của virus.
Cơ chế hoạt động tương tự như của acyclovir. Mặc dù penciclovir có ái lực với thymidine kinase của HSV cao hơn acyclovir và penciclovir triphosphat ổn định hơn acyclovir triphosphat trong các tế bào nhiễm HSV, nhưng HSV DNA polymerase có ái lực với acyclovir triphosphat cao hơn đối với penciclovir triphosphat, hiệu lực chung của những chất tương tự nucleoside này trên virus là tương đương nhau.
Việc sử dụng Penciclovir tại chỗ không liên tục dường như không liên quan đến việc xuất hiện tình trạng kháng thuốc. Tuy nhiên, HSV kháng penciclovir đã được tạo ra trong ống nghiệm và các trường hợp phân lập được HSV kháng Penciclovir trên lâm sàng hiếm khi được báo cáo.
Các chủng virus HSV kháng acyclovir do thiếu hụt thymidine kinase của virus (tức là các đột biến âm tính với thymidine kinase) thường đề kháng chéo với penciclovir. Một số chủng virut thay đổi thymidine kinase hoặc DNA polymerase kháng acyclovir thì nhạy cảm với Penciclovir in vitro.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, bệnh nhân được điều trị bằng Penciclovir lành các tổn thương nhanh hơn 30% so với giả dược (lành nhanh hơn 1 ngày), triệu chứng đau hồi phục nhanh hơn 25-30% (hiểu quả cải thiện trung bình nhanh hơn đến một ngày) và tình trạng nhiễm virus được giải quyết nhanh hơn tới 40% (nhanh hơn 1 ngày) so với giả dược.