Sự khác nhau giữa việc phòng tránh bệnh Alzheimer giữa nam và nữ
Sau khi tuổi càng cao, yếu tố nguy cơ đáng kể nhất của bệnh Alzheimer là giới tính và có khoảng 2/3 số bệnh nhân mắc Alzheimer là nữ. Trên thực tế, ngay cả khi tính tỷ lệ tử vong phụ thuộc vào giới tính và sự khác biệt về tuổi thọ, phụ nữ vẫn có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi.
Những nghiên cứu về bệnh Alzheimer dựa trên giới tính
Một nghiên cứu do Richard S. Isaacson - nhà nghiên cứu và thần kinh học hàng đầu của Đại học Florida Atlantic là nghiên cứu đầu tiên kiểm tra xem tình dục có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả nhận thức ở những người tuân theo điều chỉnh riêng, các can thiệp lâm sàng đa lĩnh vực.
![Sự khác nhau giữa việc phòng tránh bệnh Alzheimer giữa nam và nữ 1](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/su_khac_nhau_giua_viec_phong_tranh_benh_alzheimer_giua_nam_va_nu_1_7e4cf23e2c.jpg)
Nghiên cứu cũng xác định liệu sự thay đổi trong nguy cơ phát triển bệnh tim mạch và Alzheimer, cùng với các dấu hiệu máu về nguy cơ Alzheimer, có bị ảnh hưởng bởi giới tính hay không. Các nghiên cứu khác đã tập trung vào vai trò của hormone và các yếu tố nguy cơ cụ thể theo giới tính khi xem xét sự khác biệt về nguy cơ Alzheimer, nhưng chưa có nghiên cứu nào khám phá liệu những can thiệp này có dẫn đến sự khác biệt trong thực hành lâm sàng trong thế giới thực hay không.
Nghiên cứu là một phân tích của thử nghiệm Cơ quan đăng ký bệnh mất trí nhớ và bệnh Alzheimer có hiệu quả so sánh (CEDAR) được triển khai tại Weill Medicine vào năm 2015 và do Isaacson đứng đầu, đã chứng minh rằng các can thiệp đa lĩnh vực, cá nhân đã cải thiện nhận thức và giảm nguy cơ Alzheimer ở cả phụ nữ và đàn ông.
![Sự khác nhau giữa việc phòng tránh bệnh Alzheimer giữa nam và nữ](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/su_khac_nhau_giua_viec_phong_tranh_benh_alzheimer_giua_nam_va_nu_2_c0dd5dd5cc.jpg)
Trong phân tích nhóm phụ, các nhà nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả khác biệt của phương pháp tiếp cận lâm sàng khi xem xét giới tính ở những người tham gia tuân thủ cao hơn (n = 80) từ nhóm thuần tập nghiên cứu ban đầu (n = 154). Trong nhóm thuần tập này, tương tự như nghiên cứu ban đầu, những người tham gia được phân loại theo các chẩn đoán cơ bản: Nhận thức bình thường, suy giảm nhận thức chủ quan và những người tham gia Alzheimer tiền lâm sàng được phân loại là “Phòng ngừa”. Suy giảm nhận thức nhẹ do Alzheimer nhẹ được phân loại là “Điều trị sớm”.
Kết quả của nghiên cứu
Kết quả của nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Phòng chống Bệnh Alzheimer vào ngày 26 tháng 4 năm 2022, cho thấy việc chăm sóc giảm thiểu rủi ro trong cơ sở Phòng khám Phòng ngừa Bệnh Alzheimer đã dẫn đến cải thiện nhận thức ở cả phụ nữ và nam giới mà không có sự khác biệt về giới tính.
Tuy nhiên, trong nhóm Phòng ngừa, phụ nữ đã chứng minh sự cải thiện nhiều hơn trong Nghiên cứu đa sắc tộc về điểm nguy cơ xơ vữa động mạch (MESA) so với nam giới. Phụ nữ trong nhóm Điều trị sớm cũng đã chứng minh sự cải thiện nhiều hơn trong các Yếu tố Nguy cơ CV, Điểm số nguy cơ Lão hóa và Tỷ lệ Mất trí nhớ (CAIDE) và MESA-RS.
CAIDE là một chỉ số rủi ro đã được xác thực để tính toán nguy cơ sa sút trí tuệ giai đoạn cuối dựa trên các yếu tố nguy cơ mạch máu ở tuổi trung niên như chỉ số khối cơ thể, huyết áp, cholesterol và tình trạng hút thuốc, trong khi MESA ước tính nguy cơ mắc bệnh tim mạch của một người trong mười năm tới sử dụng các yếu tố rủi ro truyền thống.
![Sự khác nhau giữa việc phòng tránh bệnh Alzheimer giữa nam và nữ 3](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/su_khac_nhau_giua_viec_phong_tranh_benh_alzheimer_giua_nam_va_nu_3_d1ed25dae3.jpg)
Mặc dù việc chăm sóc trong cơ sở Phòng khám Phòng ngừa bệnh Alzheimer có hiệu quả như nhau trong việc cải thiện chức năng nhận thức ở cả phụ nữ và nam giới, nhưng các can thiệp được điều chỉnh theo cá nhân của chúng tôi đã dẫn đến những cải thiện lớn hơn ở phụ nữ so với nam giới trong các thang đo nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và tim mạch, cũng như các dấu hiệu sinh học về máu. Chẳng hạn như lượng đường trong máu, cholesterol LDL và xét nghiệm tiểu đường HbA1C.
Phát hiện của chúng tôi rất quan trọng bởi vì phụ nữ bị ảnh hưởng không tương xứng bởi bệnh Alzheimer và các mô hình rủi ro do dân số cho thấy rằng việc quản lý các yếu tố nguy cơ có thể ngăn ngừa tới 1/3 số trường hợp sa sút trí tuệ, làm nổi bật tiềm năng to lớn nằm trong việc giải quyết các yếu tố nguy cơ có thể sửa đổi được.”
Sau khi trải qua các đánh giá lâm sàng cơ bản, bao gồm:
- Tiền sử lâm sàng chi tiết.
- Khám sức khỏe.
- Nhân trắc học.
- Dấu ấn sinh học máu.
- Định kiểu gen apolipoprotein-ε4 (APOE-e4).
- Đánh giá nhận thức.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu CEDAR đã được can thiệp đa lĩnh vực, phù hợp riêng. Các khuyến nghị được cung cấp bởi các dữ liệu lâm sàng và dấu ấn sinh học này. Các danh mục khuyến nghị bao gồm giáo dục bệnh nhân/tư vấn di truyền, phương pháp tiếp cận dược lý cá nhân (thuốc/vitamin/chất bổ sung), phương pháp tiếp cận không dùng thuốc (tư vấn tập thể dục, tư vấn chế độ ăn uống, giảm nguy cơ mạch máu, vệ sinh giấc ngủ, tham gia nhận thức, giảm căng thẳng và chăm sóc y tế nói chung) và các biện pháp can thiệp dựa trên bằng chứng khác.
Bài viết trên cho thấy sự khác nhau giữa việc phòng tránh bệnh Alzheimer giữa nam và nữ. Isaacson và các cộng sự đang lên kế hoạch cho các nhóm thuần tập lớn hơn để xác định rõ hơn sự khác biệt về giới tính trong việc giảm nguy cơ Alzheimer trong thực hành lâm sàng và hy vọng sẽ sớm khởi động một nghiên cứu quốc tế nhiều địa điểm để đưa ra kết luận chắc chắn hơn.
Bảo Hân
Nguồn tham khảo: Tổng hợp