Oprelvekin
Phân loại:
Dược chất
Mô tả:
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Oprelvekin
Loại thuốc
Yếu tố tăng trưởng tạo máu
Dạng thuốc và hàm lượng
Bột đông khô 5 mg để tiêm dưới da.
Dược động học:
Hấp thu
Sinh khả dụng tuyệt đối > 80% khi dùng Oprelvekin tiêm dưới da ở người lớn khỏe mạnh.
Sinh khả dụng tương đối của liều 50 mcg/kg tiêm dưới da so với cùng liều tiêm tĩnh mạch là 65%.
Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 2-3 giờ sau khi dùng một liều tiêm dưới da.
Thời gian khởi phát tác dụng (onset) phụ thuộc vào liều lượng 5–9 ngày sau khi tiêm dưới da hàng ngày. Số lượng tiểu cầu tiếp tục tăng lên đến 7 ngày sau khi ngừng thuốc và trở lại bình thường trong vòng 14 ngày.
Ở bệnh nhân suy thận nặng (ClCr < 30 ml/phút), AUC trung bình và nồng độ đỉnh trong huyết tương cao hơn tương ứng khoảng 2,6 và 2,2 lần, so với người có chức năng thận bình thường. Không có thay đổi đáng kể về các thông số dược động học hấp thu ở bệnh nhân suy thận nhẹ hoặc trung bình so với bệnh nhân có chức năng thận bình thường.
Ở trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên từ 8 tháng đến 18 tuổi dùng liều 50 mcg/kg, AUC xấp xỉ một nửa so với ở người lớn. Dữ liệu hạn chế cho thấy trẻ em < 12 tuổi có thể không đạt được nồng độ thuốc trong huyết tương thích hợp với liều lượng khuyến cáo (50 mcg/kg mỗi ngày).
Phân bố
Không biết rõ oprelvekin có đi qua nhau thai hay được phân phối vào sữa hay không.
Thuốc có thể phân phối qua hệ thống bạch huyết trước khi đi vào hệ tuần hoàn. Phân bố nhanh chóng vào các cơ quan được tưới máu cao.
Chuyển hóa
Sự chuyển hóa của oprelvekin chưa được làm sáng tỏ đầy đủ, nhưng được cho là thuốc được chuyển hóa nhiều hoặc bị phân hủy.
Thải trừ
Bài tiết chủ yếu qua nước tiểu; chỉ một lượng nhỏ thuốc gốc được tái hấp thu.
Thời gian bán thải (T1/2) khoảng 7 giờ.
Không có bằng chứng về sự tích tụ thuốc sau khi dùng nhiều liều tiêm dưới da.
Độ thanh thải Oprelvekin ở trẻ sơ sinh và trẻ em từ 8 tháng đến 11 tuổi cao hơn so với thanh thiếu niên và người lớn ≥ 12 tuổi.
Dược lực học:
Oprelvekin là một yếu tố tăng trưởng tạo huyết khối có cấu trúc và chức năng tương tự như interleukin-11 nội sinh của người (IL-11); chỉ thiếu phần proline ở đầu tận cùng amin của IL-11 nội sinh. Không có sự khác biệt về hoạt tính sinh học in vivo hoặc in vitro so với IL-11 nội sinh.
Thuốc kích thích nhiều giai đoạn của con đường tạo máu, liên kết trực tiếp với các thụ thể IL-11 trên bề mặt tế bào tiền thân dòng tủy và kích thích sản xuất hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu trung tính và đại thực bào trong tủy xương.
Về cơ bản ảnh hưởng đến tạo tế bào nhân khổng lồ. Tạo ra sự gia tăng số lượng tiểu cầu phụ thuộc vào liều lượng bằng cách kích thích sự tăng sinh và biệt hóa của tế bào tiền thân tế bào nhân khổng lồ trong sự hiệp đồng với các yếu tố tăng trưởng khác (ví dụ: Interleukin-3 [IL-3], thrombopoietin [TPO], yếu tố tế bào gốc [SCF]).
Các tác dụng không liên quan đến huyết học bao gồm điều hòa sự phát triển của biểu mô ruột, ức chế tạo mỡ, kích thích tổng hợp các chất phản ứng giai đoạn cấp tính, điều biến (ví dụ: Ức chế) các cytokine chống viêm, và kích thích tạo cốt bào và hình thành thần kinh.