Ferulic acid
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Ferulic Acid là gì?
Trong các sản phẩm chống lão hóa da, Ferulic Acid là hoạt chất thường thấy với hiệu quả không thua kém Retinol.
Thuộc gốc acid hydroxycinnamic và có nguồn gốc từ thực vật, Ferulic Acid được tìm thấy tự nhiên trong lá và hạt của hầu hết các loại thực vật, đặc biệt có rất nhiều trong phần cám của các loại hạt như gạo, lúa mì và yến mạch.
Ferulic Acid có khả năng làm chậm quá trình lão hóa nên hoạt chất này có mặt phổ biến trong mỹ phẩm chăm sóc da. Ngoài ra, nhờ khả năng kháng khuẩn, chống viêm và chống oxy hóa nên các nhà sản xuất cũng bổ sung Ferulic Acid vào trong các sản phẩm trị mụn và chống lão hóa da.
Ferulic Acid có khả năng chống lại các gốc tự do, hiệu quả vượt trội làm chậm lại quá trình oxy hóa. Ferulic Acid còn giúp ổn định và tăng hiệu quả hoạt động của các hoạt chất chống oxy hóa khác. Đó là những ưu điểm tuyệt vời mà Ferulic Acid mang lại cho quá trình chăm sóc, bảo vệ làn da.
Điều chế sản xuất Ferulic Acid
Ferulich Acid là một dẫn xuất acid hydroxycinnamic. Loại acid này thu được từ phương pháp thủy phân.
Cơ chế hoạt động của Ferulic Acid
Là chất chống oxy hóa nên Ferulic Acid có thể ức chế các enzyme tạo ra gốc tự do. Những gốc tự do này chính là nguyên nhân chủ yếu khiến da mất dần độ đàn hồi và săn chắc, đồng thời còn làm hình thành nếp nhăn. Đặc tính của Ferulic Acid sẽ giúp giải quyết vấn đề lão hóa da một cách hiệu quả.
Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Ascorbyl Glucoside là gì?
Ascorbyl Glucoside (vitamin C gốc đường) là một dẫn xuất của vitamin C. Ascorbyl Glucoside có độ pH từ 5-7. Khác với tác dụng trực tiếp khi lên da của các gốc C khác như LAA, EAA, MAP, SAP… Ascorbyl Glucoside sau khi lên da sẽ trải qua một quá trình hấp thụ và chuyển đổi thì mới mang lại những hiệu quả rõ rệt cho da.
Cụ thể, sau khi Ascorbyl Glucoside được hấp thụ vào da, một loại Enzyme được gọi là Alpha-Glucosidas sẽ phân hủy nó thành LAA (L – Ascorbic Acid). Quá trình này sẽ giúp da nhận được những hiệu quả của vitamin C như làm sáng da, chống oxy hóa, mờ thâm, làm mờ nếp nhăn... Và đồng thời hạn chế được tối đa các khả năng kích ứng so với khi bôi trực tiếp gốc L-AA lên da.
Người dùng sử dụng vitamin C gốc LAA thường hay gặp phải tình trạng khó hấp thụ, vitamin C bị oxy hóa ngay trên bề mặt da và khiến da bị vàng sạm. Những ai gặp trường hợp này khi sử dụng LAA thì có thể tham khảo sang gốc Ascorbyl Glucoside (Vitamin C gốc đường). Vì gốc này ổn định với ánh sáng hơn rất nhiều, cũng như độ hấp thụ và thẩm thấu tốt hơn hẳn.
Vì phải trải qua một giai đoạn chuyển hóa nên nhìn chung Ascorbyl Glucoside sẽ có hiệu quả chậm hơn so với vitamin C gốc LAA. Tuy nhiên, đây sẽ là một giải pháp an toàn, dài lâu, và cũng như đảm bảo sản phẩm đang dùng không bị oxy hóa giữa chừng. Thêm một điểm nhỏ nữa thì bảo quản Vitamin C gốc LAA khó cực kỳ, bạn phải để tránh ánh sáng trực tiếp, thường xuyên kiểm tra màu sản phẩm, nếu nó bị vàng ngà đi thì tinh chất đã bị oxy hóa và không thể sử dụng được nữa. Vitamin C gốc LAA tốt nhất nên được bảo quản ở tủ lạnh. Ngược lại, các sản phẩm chứa Ascorbyl Glucoside thì chỉ cần để ở nhiệt độ phòng và không cần lo ngại đến khả năng sản phẩm bị oxy hóa.
Vì sẽ chuyển hóa thành LAA sau khi lên da nên Ascorbyl vẫn duy trì những hiệu quả tốt của vitamin C đối với da. Nổi bật là các hiệu quả như chống oxy hóa, làm sáng da, giảm thâm, tăng độ đàn hồi, thúc đẩy hình thành và tái tạo Collagen trên da. Ưu điểm lớn của Ascorbyl Glucoside là thẩm thấu tốt, ít gây kích ứng trên da và hầu như sản phẩm không bị oxy hóa ngay cả khi bảo quản ở môi trường nhiệt độ phòng.
Điều chế sản xuất Ascorbyl Glucoside
Sản xuất công nghiệp của Ascorbyl Glucoside chủ yếu bao gồm việc chuẩn bị, tinh chế, kết tinh của ba quy trình chính.
Hiện nay, quá trình chuyển đổi sinh học là cách duy nhất để tổng hợp glucoside ascorbic acid, tức là sử dụng glucoside trên glucosyl donor được chuyển đến vị trí C 2 của vitamin C bằng cách sử dụng transglycosylation cụ thể của glycosyltransferase.
Trong phản ứng này, các độ dài khác nhau của các nhóm glucosyl có thể được gắn với vị trí C 2 của vitamin C để sản xuất một hỗn hợp AA-2Gn (n = 1,2,3,4,5-C có thể chuyển thành Ascorbyl Glucoside bằng cách bổ sung một glucoamylase để giảm mức độ trùng hợp.
Ngoài ra, các đồng phân AA-5G, AA-6G và các AA-2G khác có xu hướng hình thành trong phản ứng glycosyltransferase, và các nhà tài trợ vitamin C và glucose vẫn tồn tại sau phản ứng, do đó phản ứng glycosyl hóa hoàn thành, dung dịch phản ứng được tách ra và tinh chế, và cuối cùng là phương pháp tinh thể để có được độ tinh khiết cao ascorbyl glucoside sản phẩm.
Cơ chế hoạt động của Ascorbyl Glucoside
Ascorbyl Glucoside có cấu trúc bao gồm một nhóm của L-ascorbic Acid và Glucose. Khi thẩm thấu qua da, thành phần này sẽ được enzyme alphe-glucosidase phân chia thành L-ascosbic Acid và Glucose tách biệt.
Khi đó, thành phần này cũng sẽ sở hữu chức năng tương tự như L-ascorbic acid thông thường, có khả năng hoạt động như một coenzyme kích thích quá trình tổng hợp Collagen của da.
Sodium Lactate là gì?
Sodium Lactate là muối natri của axit lactic, có khả năng giữ ẩm tự nhiên, an toàn đối với da.
Sodium Lactate được sản xuất bằng cách lên men đường, có thể tìm thấy trong ngô, củ cải đường. Sodium Lactate có công thức hoá học NAC3H5O3, độ hoà tan trong nước > 1,5g/ml.
Sodium Lactate cũng là thành phần tự nhiên của lớp trên cùng của da, là một phần của NMF (yếu tố giữ ẩm tự nhiên), giúp bề mặt da trở nên đàn hồi và ngậm nước tốt hơn.
Tuy nhiên, nếu để ý bạn sẽ thấy da chúng ta bị khô bong tróc rõ rệt bởi ảnh hưởng của các yếu tố như tuổi tác hoặc thường xuyên tiếp xúc với chất tẩy rửa, cồn biến tính,...
Để khắc phục vấn đề này, bạn cần bổ sung nước cho da bằng các thành phần tự nhiên của NMF như Sodium Lactate, giúp làn da được tươi sáng, trẻ trung.
Điều chế sản xuất Sodium Lactate
Sản xuất Sodium Lactate bằng phương pháp lên men đường rồi trung hòa axit lactic. Phần lớn axit lactic dùng trong mục đích thương mại đều lên men từ những sản phẩm không có tinh bột như bột bắp, mật mía, khoai tây.
Caprylic/Capric Triglyceride là gì?
Caprylic/Caprylic triglyceride là một thành phần được sử dụng phổ biến trong mỹ phẩm và xà phòng. Nó là sản phẩm từ sự kết hợp dầu dừa và glycerin.
Có thể thay thế tự nhiên cho các chất làm mềm và chất tăng cường kết cấu khác nên Caprylic/Caprylic triglyceride thường được nhà sản xuất dùng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm sạch.
Caprylic/Capric Triglycerides cũng có tác dụng của một chất chống oxy hóa nên được ứng dụng làm chất bảo quản trong một số sản phẩm nhằm giúp kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm. Do đó, từ lâu chất này đã trở thành chọn lựa hoàn hảo để thay thế cho những chất bảo quản khác.
Trừ những người đã được xác định dị ứng với Caprylic/Caprylic triglyceride, còn lại thì thành phần này phù hợp với tất cả mọi người.
Điều chế sản xuất Caprylic/Capric Triglyceride
Để chiết xuất Caprylic/Caprylic triglyceride, người ta thực hiện qua hai bước. Bước thứ nhất dùng phương pháp xà phòng hóa (tức là dùng xà phòng) để tách nhóm glycerol khỏi các axit béo. Nhóm glycerol này tiếp tục phản ứng lại với các axit béo khác để tạo ra một hợp chất mới mà chúng ta gọi là xà phòng.
Ngoài ra, còn có thể tách glycerol khỏi các axit béo thông qua quá trình thủy phân hơi nước: Sử dụng nhiệt độ và áp suất mạnh để phá vỡ phân tử triglyceride.
Bước thứ hai là trải qua quá trình este hóa để hình thành được dầu tinh khiết chứa caprylic từ xà phòng, phải để tách hẳn glycerol ra khỏi toàn bộ axit béo như axit lauric (49%), axit myristic (18%), axit palmitic (8%), axit caprylic (8%), axit capric ( 7%), axit oleic (6%), axit linoleic (2%) và axit stearic (2%).
Tóm lại, quá trình thu Caprylic (Capric Triglyceride) chính là việc tách nhập nhiều lần axit béo với nhóm glycerol rồi cuối cùng trải qua quá trình este hóa.
Adipic Acid là gì?
Adipic Acid (hay acid hexanedioic) là hợp chất hữu cơ, công thức hóa học là (CH2)4(COOH)2.
Trong công nghiệp, Adipic Acid là acid dicarboxylic quan trọng nhất. Adipic Acid tồn tại ở dạng bột tinh thể màu trắng, mỗi năm được sản xuất vào khoảng 2,5 tỷ kg.
Chủ yếu là tiền chất để sản xuất nylon, Adipic Acid hiếm khi xuất hiện trong tự nhiên. Trong đời sống, Adipic Acid là phụ gia thực phẩm được sản xuất với số E là E355.
Một số tên gọi khác của Adipic Acid là:
-
Axit Hexanedioic;
-
Axit adipic Axit;
-
Butan-1,4-dicarboxylic Axit;
-
Hexan-1,6-dioic axit;
-
1,4-butanedicarboxylic.
Adipic Acid có khả năng tham gia phản ứng trùng ngưng.
Điều chế sản xuất Adipic Acid
Quá trình hydrocarboxyl hóa tiến hành như sau:
CH 2 = CH − CH = CH 2 + 2 CO + 2 H 2 O → HO 2 C (CH 2 ) 4 CO 2 H
Một phương pháp khác là phân cắt oxy hóa cyclohexene bằng hydro peroxide, thải ra nước.
Trong lịch sử, Adipic Acid được điều chế bằng cách oxy hóa các chất béo khác nhau.
Ester là gì?
Một ester là một hợp chất hữu cơ kết quả từ phản ứng giữa oxoacid và hợp chất hydroxyl (như rượu và phenol). Nó tương tự như một axit cacboxylic có nguyên tử hydro thuộc nhóm -COOH được thay thế bằng nhóm alkyl hoặc aryl.
Ester là các phân tử phân cực, so với các axit cacboxylic có trọng lượng tương tự thì điểm sôi của ester thấp hơn vì giữa chúng không thể hình thành liên kết hydro. Thay vào đó, chúng có thể hình thành liên kết hydro giữa các nguyên tử oxy và nguyên tử hydro của các phân tử nước. Do đó, ester ít tan trong nước.
Khác với axit cacboxylic tương ứng thường có mùi khó chịu, ester có mùi trái cây. Những ester này là lý do cho mùi của nhiều loại trái cây (chẳng hạn dứa có mùi từ ethyl ethanoate) nên ngành công nghiệp thực phẩm từ lâu đã sử dụng ester để tạo mùi.
Cần biết là, ester chúng ta sử dụng trong một sản phẩm cụ thể để có mùi trái cây mong muốn không phải là hợp chất có trong nguồn tự nhiên. Tuy nhiên, ester có thể tạo ra hương vị và mùi tương tự. Hơn nữa, mặc dù hợp chất không giống như trong trái cây tự nhiên, nhưng không nguy hiểm khi ăn các sản phẩm thực phẩm này vì cấu trúc của ester gần giống với hợp chất tự nhiên.
Có trọng lượng phân tử thấp và có mùi thơm, este thường được sử dụng làm nước hoa, các loại tinh dầu và pheromone. Este còn là dung môi tốt cho các chất dẻo, chất hóa dẻo, nhựa cây và sơn mài. Đây cũng đồng thời là một trong chất bôi trơn tổng hợp lớn nhất trên thị trường.
Điều chế sản xuất Ester
Este được điều chế theo nhiều phương pháp phân theo từng loại este: Este của ancol, este của phenol, este không no.
Este của ancol
Phương pháp thường dùng để điều chế este của ancol là tiến hành phản ứng este hóa, đun hồi lưu ancol và axit hữu cơ, có H2SO4 đặc làm xúc tác.
Phản ứng este hóa là phản ứng thuận nghịch. Để tăng hiệu suất phản ứng thuận:
-
Tăng nồng độ chất tham gia;
-
Giảm nồng độ sản phẩm bằng cách: Đun nóng để este bay hơi hoặc dùng H2SO4 đặc để hút nước. H2SO4 đặc vừa là xúc tác, vừa làm tăng hiệu suất phản ứng.
Este của phenol
Các este chứa gốc phenyl không điều chế được bằng phản ứng của axit cacboxylic với phenol mà phải dùng anhidrit axit hoặc clorua axit tác dụng với phenol.
Điều chế một số este không no
RCOOH + HC=CH → RCOOCH=CH2
Cơ chế hoạt động của Ester
Este có trọng lượng phân tử thấp, cấu tạo không phức tạp lắm và rất dễ chế tạo bằng phương pháp tổng hợp. Hợp chất này dễ bay hơi, chúng liên tục phát tán vào không khí làm cho mũi của chúng ta nhận biết được mùi thơm của hoa quả.
Glycolic Acid là gì?
Glycolic Acid hay Axit glycolic là thành viên nhỏ nhất trong họ Alphahydroxy Acid (AHA), thuộc nhóm axit gốc nước. Axit glycolic có công thức hóa học là C2H4O3, là axit không màu, không mùi, ở thể rắn (tinh thể) có khả năng hút ẩm rất cao. Axit glycolic có thể được dễ dàng tìm thấy trong các nguyên liệu tự nhiên như mía, củ cải đường, dứa,… Hiện nay, Axit glycolic được ứng dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và làm đẹp.
Công thức hóa học của Axit glycolic
Với khả năng ngậm nước và thẩm thấu tốt, Axit glycolic là một trong những “thành phần vàng” được phái đẹp ưa chuộng trong làm đẹp và chăm sóc da. Axit glycolic xuất hiện hầu hết trong các sản phẩm chăm sóc da hiện nay như sữa rửa mặt, toner, kem dưỡng,… Với kết cấu phân tử nhỏ dễ dàng thấm thấu qua lớp biểu bì, Axit glycolic giúp loại bỏ các tế bào chết trên da, kích thích sản sinh collagen, cải thiện cấu trúc da, ngăn ngừa quá trình lão hóa da.
Ngoài ra, Axit glycolic còn gián tiếp giúp da hạn chế mất nước, tăng cường độ ẩm cao nhờ khả năng kích thích hoạt động của Hyaluronic acid dưới da. Với nồng độ được khuyến nghị từ 10 - 15% trong mỹ phẩm, Axit glycolic sẽ phát huy được tối đa công dụng của loại AHA này với khả năng tăng cấu trúc dưới da, giảm quá trình tạo nếp nhăn, điều trị mụn, giảm lượng melanin sau khi tổng hợp, giảm các vết thâm và chống lại các tổn hại do ánh nắng mặt trời.
Axit glycolic tăng cấu trúc dưới da, giảm quá trình tạo nếp nhăn
Tuy nhiên, vì phân tử nhỏ và độ thẩm thấu cao nên Axit glycolic cũng có khả năng gây kích ứng cao với da. Theo nghiên cứu, nồng độ Axit glycolic trong mỹ phẩm thường hạn chế ở mức 10 - 15%. Cụ thể, Axit glycolic nồng độ từ 2 – 5% được dùng tẩy tế bào chết, làm thông thoáng lỗ chân lông, hỗ trợ việc điều trị mụn và da khô. Axit glycolic từ 5 – 10% giúp da khỏe mạnh và căng mịn hơn, giảm các vết nhăn li ti và giúp làn da sáng mịn. Axit glycolic từ 12 - 15% điều trị da thâm sạm và sẹo mụn.
Điều chế và sản xuất Glycolic Acid
Glycolic acid có thể được phân lập từ các nguồn tự nhiên như mía, củ cải đường, dứa, dưa đỏ và nho chưa chín.
Ngoài ra, Glycolic acid có thể được điều chế bằng phản ứng của axit chloroacetic với natri hydroxide, sau đó tái axit hóa.
Cơ chế hoạt động của Glycolic Acid
Glycolic acid phá vỡ lớp liên kết của lớp da trên cùng bằng cách hòa tan bã nhờn và các chất liên kết tế bào lại với nhau. Sau đó, acid này sẽ giúp các tế bào da bị chết bong ra giúp bề mặt da trở nên thoáng và sáng màu hơn.
Beta glucan là gì?
Beta glucan là chất xơ hoà tan đến từ thành tế bào của vi khuẩn, nấm, nấm men và một số thực vật. Từ lâu, Beta glucan đã được sử dụng trong Y học cổ truyền, đặc biệt là ở Nhật Bản và được nghiên cứu trong nhiều năm. Beta glucan cũng được sử dụng ở các loại thuốc cổ truyền ở Trung Quốc cũng như ở Châu Á. Tại Mỹ, nghiên cứu ban đầu tập trung vào tác dụng điều hoà miễn dịch của Beta glucan.
Là một chất xơ hoà tan, Beta glucan không được tiêu hoá nhưng đồng thời có thể làm chậm quá trình vận chuyển thức ăn trong ruột. Kết quả là carbohydrate được hấp thu chậm hơn, dẫn đến lượng đường trong máu ổn định hơn. Beta glucan còn giúp cơ thể ngăn hấp thu cholesterol từ thực phẩm, có thể kích thích hệ thống miễn dịch và làm giảm nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch.

Điều chế sản xuất Beta glucan
Việc tinh chế Beta glucan từ nấm men và các vi sinh vật khác đã được nghiên cứu rộng rãi và có nhiều phương pháp được biết đến. Hầu hết trong số này dựa vào tính không hòa tan của β-(1-3)-glucan trong kiềm hoặc trong dung môi hữu cơ.
Các phương pháp chính được biết đến là:
- Chiết ở nhiệt độ cao bằng sodium hydroxide đậm đặc, sau đó chiết ở nhiệt độ cao bằng acid và kết tủa bằng ethanol. Nhiều quy trình trong số này yêu cầu sự đồng nhất sơ bộ của các tế bào nấm men. Bên cạnh đó, nhiều quy trình yêu cầu lặp lại nhiều lần từng bước chiết xuất.
- Chiết xuất các chế phẩm thành tế bào nấm men từ quá trình tự phân hủy hoặc phân hủy enzyme của nấm men bằng phenol : nước đậm đặc (1:1).
- Chiết bằng các dung môi hữu cơ như isopropanol, ethanol, acetone hoặc methanol riêng lẻ hoặc với sự có mặt của chất kiềm.

Cơ chế hoạt động
Các công dụng của Beta glucan mang lại dựa trên nhiều cơ chế khác nhau.
Beta glucan được coi là chất kích hoạt mạnh mẽ khả năng miễn dịch tế bào, với đại thực bào là mục tiêu sinh học quan trọng nhất. Với các tác dụng đáng kể trên các nhánh khác nhau của hệ thống miễn dịch. Các thành phần của hệ miễn dịch bị ảnh hưởng bởi Beta glucan bao gồm đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, tế bào đuôi gai và tế bào NK. Các thụ thể quan trọng nhất là Dectin-1 và CR3, các thụ thể bổ sung bao gồm Toll-2, lactosylceramide và các thụ thể scavenger.
Beta glucan trong da liễu ít được nghiên cứu hơn, trong hầu hết trường hợp, Beta glucan được sử dụng để chữa lành vết thương. Cơ chế có thể thông qua việc Beta glucan kích thích đại thực bào. Beta glucan còn được phát hiện ra là làm tăng phản ứng da do bradykinin gây ra, cho thấy sự kích hoạt nội mô thông qua việc tạo ra các chất vận mạch.
Giống như các loại chất xơ hoà tan khác, Beta glucan làm chậm quá trình di chuyển của thức ăn trong ruột. Điều này làm tăng thời gian tiêu hóa thức ăn, khiến bạn no lâu hơn. Beta glucan cũng làm chậm quá trình hấp thu đường vào máu, giúp ổn định lượng đường trong máu. Ngoài ra, Beta glucan còn làm giảm sự hấp thu cholesterol trong máu. Hàng loạt các thử nghiệm lâm sàng cũng cho thấy các hiệu quả khác nhau của Beta glucan như chống ung thư, chống đái tháo đường, và giảm cholesterol máu đặc biệt là các lipoprotein mật độ thấp (LDL - mỡ máu xấu).

Avobenzone là gì?
Avobenzone là dẫn xuất metan dibenzoyl, có công thức hóa học là C20H22O3. Avobenzone tồn tại ở dạng bột tinh thể màu trắng đến vàng. Đặc tính của thành phần này là có thể tan trong dầu (isopropanol, decyl oleate, axit triglyceride/axit capric và các loại dầu khác).
Năm 1973, Avobenzone được phát hiện lần đầu, vài năm sau đó nó đã được sử dụng rộng rãi khắp Châu Âu. Năm 1998, FDA chấp thuận cho thành phần này xuất hiện trong các sản phẩm mỹ phẩm. Avobenzone cho đến nay vẫn được đánh giá là an toàn khi sử dụng bôi ngoài da dù có một số lo ngại về ảnh hưởng của chất này đối với cơ thể.
Avobenzone có khả năng hấp thụ tia UVA nên được sử dụng rộng rãi trong tất cả các loại kem chống nắng phổ rộng có dán nhãn “broad spectrum” (chống lại cả tia UVA và UVB).
Một điều cần lưu ý là càng tiếp xúc với tia UV thì khả năng hấp thụ của Avobenzone càng suy giảm theo thời gian, cụ thể là giảm xuống 36‰ sau 1 giờ sử dụng. Do đó, các nhà sản xuất sẽ thường kết hợp Avobenzone cùng các thành phần chống nắng khác để giúp chúng trở nên ổn định hơn, kéo dài tác dụng hơn dưới ánh nắng mặt trời.
Cơ chế hoạt động của Avobenzone
Có mặt trong kem chống nắng hóa học, Avobenzone sẽ giúp hấp thụ toàn bộ quang phổ của tia UVA – tia cực tím gây lão hóa da rồi chuyển đổi sang bức xạ hồng ngoại ít gây hại cho người sử dụng.
Cinnamaldehyde là gì?
Cinnamaldehyde còn được gọi là Aldehyde cinnamic; 3-phenyl-2-propan; Anđehit cinnamyl; Phenylalacrolein; quế chi và trans-cinnamaldehyde. Đây là thành phần có trong vỏ của cây quế (Cinnamomum zeylanicum), xuất xứ từ Sri Lanka và Ấn Độ và được trồng ở Brazil, Jamaica và Mauritius. Cinnamaldehyde cũng được tìm thấy trong các thành viên khác của loài Cinnamomum bao gồm cả cây cassia và long não.
Có công thức hóa học là C6H5CH = CHCHO, Cinnamaldehyde là một hợp chất hữu cơ xuất hiện tự nhiên chủ yếu là đồng phân trans (E), mang lại hương vị và mùi cho quế.
Đây là một Phenylpropanoid được tổng hợp tự nhiên bằng con đường sinh tổng hợp Shikimat, tồn tại dưới dạng chất lỏng nhớt, màu vàng nhạt. Tinh dầu của vỏ quế chứa khoảng 90% là Cinnamaldehyde.
Công thức phân tử của Cinnamaldehyde được xác định vào năm 1834 bởi các nhà hóa học người Pháp Jean Baptiste André Dumas (1800–1884) và Eugène Melchior Péligot (1811–1890) và mặc dù công thức cấu trúc của nó chỉ được giải mã vào năm 1866 bởi nhà hóa học người Đức Emil Erlenmeyer (1825– Năm 1909).
Điều chế sản xuất
Có nhiều cách để điều chế Cinnamaldehyde. Thành phần này được điều chế thương mại bằng cách xử lý vỏ cây Cinnamomum zeylanicum với hơi nước. Anđehit hòa tan trong hơi nước, sau đó Cinnamaldehyde được chiết xuất khi hơi nước nguội đi và ngưng tụ lại để tạo thành nước lạnh, trong đó hợp chất ít hòa tan hơn nhiều.
Cinnamaldehyde cũng có thể được tổng hợp bằng cách cho phản ứng giữa Benzaldehyde (C6H5CHO) với Acetaldehyde (CH3CHO). Hai hợp chất ngưng tụ sau khi loại bỏ nước để tạo thành Cinnamaldhyde.
Năm 1834, Cinnamaldehyde được phân lập từ tinh dầu quế bởi Jean-Baptiste Dumas và Eugène-Melchior Péligot và được nhà hóa học người Ý Luigi Chiozza tổng hợp trong phòng thí nghiệm vào năm 1854.
Tinh dầu quế được chiết xuất từ vỏ cây quế với thành phần chính là Cinnamaldehyde. Có hai cách để chiết xuất được tinh dầu quế từ vỏ quế: Đó là công nghệ chưng cất hơi nước và chiết xuất qua dung môi. Nhưng để đạt thành phần Cinnamaldehyde lên đến 90% thì phải sử dụng công nghệ chưng cất hơi nước, còn với công nghệ chiết xuất qua dung môi chỉ đạt được 62 % đến 73 % tỉ lệ Cinnamaldehyde.
Cơ chế hoạt động
Nhiều dẫn xuất của Cinnamaldehyde có ích về mặt thương mại. Rượu Dihydrocinnamyl, xuất hiện tự nhiên nhưng được sản xuất bằng cách hydro hóa gấp đôi Cinnamaldehyd, được sử dụng để tạo ra mùi thơm của lục bình và hoa cà. Rượu Cinnamyl cũng tương tự và có mùi của hoa cà, có thể được sản xuất bắt đầu từ Cinnamaldehyd. Dihydrocinnamaldehyd được tạo ra bởi quá trình hydro hóa chọn lọc của tiểu đơn vị kiềm.
Betaine là gì?
Betaine là một amino acid - dẫn xuất của choline được tạo ra khi choline kết hợp với axit amin glycine, với cấu trúc hóa học có chứa 3 nhóm methyl bổ sung. Do vậy, betaine còn được gọi là trimethylglycine.
Betaine có một số chức năng sinh học quan trọng: Với chức năng là một phân tử nhường nhóm methyl, betaine tham gia vào quá trình methyl hóa (quá trình sinh hóa thiết yếu) hỗ trợ chức năng của gan, giải độc và hoạt động của tế bào trong cơ thể.
Tuy nhiên, vai trò quan trọng nhất của betaine là hỗ trợ cơ thể xử lý chất béo. Betaine cũng là một chất chống thẩm thấu thiết yếu chủ yếu ở thận, gan và não. Một lượng lớn betaine có thể tích lũy trong các tế bào mà không làm gián đoạn chức năng của tế bào, giúp bảo vệ các tế bào, protein và enzyme dưới áp lực thẩm thấu.
Trong sản xuất mỹ phẩm, betaine tương thích tốt với da, giúp làm giảm kích ứng gây ra do chất diện hoạt và tạo cảm giác mềm mại khi sử dụng. Theo một nghiên cứu được tiến hành trên 22 tình nguyện viên tại Thái Lan, 100% người tham gia nhận thấy màu da sáng hơn sau khi sử dụng dung dịch betaine 4%.
Điều chế sản xuất Betaine
Vào thế kỷ 19, người ta đã phát hiện ra betaine là một chất tự nhiên có trong củ cải đường (Beta Vulgaris). Trong một số thực phẩm như cám lúa mì, mầm lúa mì, rau bina, vi sinh vật và động vật không xương sống dưới nước, betaine cũng được tìm thấy ở nồng độ cao hơn.
Chúng ta có thể bổ sung betaine thông qua chế độ ăn uống. Ngoài ra, trong cơ thể, betaine được tổng hợp bởi sự kết hợp của choline và axit amin glycine.
Cơ chế hoạt động của Betaine
Betaine hình thành liên kết hydro với nước và những phân tử khác một cách dễ dàng nhờ vào đặc điểm về cấu trúc. Chất này có thể tan trong nước tạo dung dịch 55% bền vững về mặt hóa học.
Nhờ có betaine mà homocysteine trong máu được chuyển đổi thành methione. Điều này rất quan trọng, hàm lượng homocysteine ở mức cao sẽ ảnh hưởng xấu đến mạch máu, từ đó dễ dẫn đến sự phát triển các mảng bám và tình trạng gọi là xơ vữa động mạch (tắc nghẽn động mạch).
Ngoài ra, hàm lượng homocysteine cao cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh tim, đột quỵ cũng như các bệnh tim mạch khác. Betaine có khả năng hạ thấp homocysteine, tăng cường cơ và sức mạnh của sợi cơ, tăng cường độ chịu đựng và giúp giảm béo.
Cellulose Gum là gì?
Cellulose gum là muối Natri của Carboxymethyl cellulose (CMC), lần đầu tiên được sản xuất vào năm 1918. Sau khi được giới thiệu rộng rãi ở Mỹ vào năm 1946, Cellulose gum được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực, trong đó có mỹ phẩm bởi những chức năng quan trọng như chất làm đặc, ổn định nhũ tương, chất kết dính…
Về mặt hóa học, Cellulose gum là một Polymer, là một dẫn xuất Cellulose với các nhóm Carboxymethyl (-CH2COOH) liên kết với một số nhóm Hydroxyl của các Glucopyranose monomer tạo nên khung sườn Cellulose. Chất này thường được sử dụng dưới dạng Natri carboxymethyl cellulose.
Đây là chế phẩm ở dạng bột trắng, hơi vàng, gần như không mùi hạt hút ẩm, có thể tạo dung dịch dạng keo với nước nhưng không hòa tan trong Ethanol.
Điều chế sản xuất
Cellulose gum được sản xuất từ các bộ phận của một số loài thực vật, chủ yếu lấy phần cây hoặc bông. Nguồn Cellulose gum được trồng ổn định và được chế biến bằng cách sử dụng Acid axetic và muối. Axit axetic là một axit nhẹ, là thành phần chính của giấm. Sau khi trộn bông hoặc gỗ với Acid axetic và muối, hỗn hợp này được lọc và làm khô để tạo ra một loại bột mịn, đó là Cellulose gum.
Cơ chế hoạt động
Độ tan và nhiệt độ
Cellulose gum có độ tan và nhiệt độ phụ thuộc vào giá trị DS tức là mức độ thay thế. Giá trị DS cao cho độ hòa tan thấp và nhiệt độ tạo kết tủa thấp hơn do sự cản trở của các nhóm Hydroxyl phân cực. Cellulose gum tan tốt ở 40 độ C và 50 độ C.
Cách tốt nhất để hòa tan Cellulose gum trong nước là trộn bột trong nước nóng, để các hạt Cellulose methyl được phân tán trong nước, khi nhiệt độ hạ xuống, khuấy đều thì các hạt này sẽ bị tan ra. Với dẫn xuất dưới 0.4, Cellulose gum không hòa tan trong nước.
Độ nhớt
Cellulose gum với dẫn xuất 0,95 và nồng độ tối thiểu 2% cho độ nhớt 25Mpa tại 25 độ C.
Thông thường, dung dịch 1% có pH = 7 – 8,5. Ở pH< 3 thì độ nhớt tăng, thậm chí kết tủa. Do đó không sử dụng được Cellulose gum cho các sản phẩm có pH thấp. Độ pH >7 thì độ nhớt giảm ít. Độ nhớt Cellulose gum giảm khi nhiệt độ tăng và ngược lại.
Cellulose Gum dễ dàng hòa tan trong nước và dung dịch Sorbitol ở các nồng độ khác nhau để mang lại độ nhớt mong muốn.
Tạo đông
Cellulose gum có khả năng tạo đông thành khối vững chắc với độ ẩm rất cao (98%). Nồng độ Cellulose gum, độ nhớt của dung dịch và lượng nhóm Acetat là những yếu tố quyết định độ chắc và tốc độ tạo đông khi được thêm vào để tạo đông. Nồng độ tối thiểu để Cellulose gum tạo đông là 0,2% và của nhóm Acetat là 7% so với Cellulose gum.
Cellulose gum chủ yếu được sử dụng để làm đặc và ổn định mỹ phẩm. Ngoài ra, do cấu trúc cao phân tử của Cellulose gum nên chất này hoạt động như chất tạo màng. Cellulose gum cũng được sử dụng để cải thiện hiệu quả dưỡng ẩm.
Hỗn hợp Cellulose gum và Xanthan có thể được sử dụng để cải thiện độ nhớt của công thức cuối cùng.
Argania Spinosa là gì?
Argania Spinosa (hay Argan Oil, dầu Argan) là loại dầu thực vật được chiết xuất từ nhân hạt của cây Argan (tên khoa học là Argania spinosa spinosa L). Argania Spinosa có đặc tính màu vàng trong, thoang thoảng mùi thơm nhẹ, giàu chất dinh dưỡng nên được ưa chuộng sử dụng trong ẩm thực, trị thương, giảm đau, dưỡng da và tóc.
Trong dầu Argan chứa vitamin E (loại tocopherols), chất chống oxy hóa và các axit béo thiết yếu cùng nhiều dưỡng chất khác. Cụ thể như sau:
-
Các phenol tự nhiên chính trong dầu Argan: Axit caffeic, oleuropein, axit vanillic, tyrosol, catechol, resorcinol, epicatechin và catechin.
-
Các axit béo thiết yếu gồm có: Axit Linolenic (<0,5%), axit Stearic (6,0%), axit Palmitic (12,0%), axit Linoleic (36,8%), axit Oleic (42,8%). Những axit béo có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dưỡng chất giúp chăm sóc, cải thiện, duy trì độ ẩm, giữ cho làn da đàn hồi và săn chắc.
-
Vitamin E: Hàm lượng vitamin E trong dầu Argan nhiều hơn trong dầu Olive gấp 2 lần. Loại vitamin này có tác dụng ngăn ngừa lão hóa da.
Điều chế sản xuất
Để chiết xuất được một lít dầu Argan, người ta sẽ cần đến 100 kg quả Argan. Đáng nói là cây Argan chỉ có ở Ma-rốc và chúng chỉ ra quả khi được 30-40 năm tuổi nên giá thành của Argania Spinosa tương đối cao.
Thời xưa, việc chiết xuất dầu Argan tiến hành bằng phương pháp thủ công. Ngày nay, người ta chiết xuất bằng phương pháp ép lạnh, công nghiệp hóa nhưng vẫn có một số giai đoạn như tách hạt phải làm thủ công.
Sản phẩm liên quan