Acid fusidic
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Acid fusidic là gì?
Acid fusidic là một loại kháng sinh steroid được sản xuất từ nấm Fusidium coccineum và được phát triển bởi công ty dược phẩm Leo Pharma ở Đan Mạch từ những năm 1960. Acid fusidic được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn do đó thuốc sẽ không có tác dụng đối với cảm lạnh, cúm hoặc các bệnh nhiễm vi-rút khác.
Acid fusidic và Natri fusidate có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với liệu pháp toàn thân trong điều trị nhiễm trùng da nguyên phát và thứ phát do các chủng Staphylococcus aureus, Streptococcus và Corynebacterium minutissimum nhạy cảm gây ra.
Acid fusidic chỉ được bán theo toa của bác sĩ. Thuốc có nhiều dạng khác nhau như kem, thuốc mỡ và thuốc nhỏ mắt. Thuốc có thể được kết hợp với một steroid trong một số loại kem. Ngoài ra, thuốc cũng có thể được sử dụng bằng đường tiêm, hoặc dạng viên. Nhưng những hình thức này thường chỉ được chỉ định trong bệnh viện.

Điều chế sản xuất Acid fusidic
Điều chế Acid fusidic dạng kem
Natri fusidate là nguyên liệu thô ban đầu để điều chế ra Fusidic, Natri fusidate được chuyển thành Acid fusidic trong môi trường không có oxy (được tạo ra bằng cách sử dụng khí trơ).
- Đun nóng nước tinh khiết trong khoảng từ 20% đến 75%, tốt hơn là 35% đến 50%, tốt hơn nữa là 40% đến 43% trong bình pha nước ở nhiệt độ 70°C đến 80°C.
- Thêm vào bình pha nước nêu trên chất bảo quản, được chọn từ nhóm bao gồm Methylparaben, Propylparaben, Chlorocresol, Kali sorbate, Acid benzoic.
- Trộn hỗn hợp bằng máy khuấy ở tốc độ 10 đến 50 vòng/phút trong khi duy trì nhiệt độ của hỗn hợp ở 70°C đến 80°C.
- Thêm các vật liệu sáp bao gồm parafin mềm trắng, parafin lỏng, parafin cứng vào bình pha dầu và làm tan chảy sáp nói trên bằng cách đun nóng đến 70°C đến 80°C.
- Thêm vào bình pha dầu này chất nhũ hóa sơ cấp, tốt hơn là ở dạng chất hoạt động bề mặt không chứa ion, được chọn từ nhóm bao gồm rượu Cetostearyl, Cetomacrogol - 1000; chất nhũ hóa thứ cấp được chọn từ nhóm bao gồm Polysorbate - 80, Span - 80 và tương tự, tốt hơn là Polysorbate - 80 và trộn kỹ hỗn hợp, tốt nhất là sử dụng máy khuấy, ở tốc độ 10 đến 50 vòng/phút trong khi duy trì nhiệt độ của hỗn hợp ở 70°C đến 80°C.
- Chuyển hỗn hợp vào trong điều kiện chân không trong phạm vi từ âm 1000 đến âm 300mmHg và ở nhiệt độ 70°C đến 80°C và trộn kỹ hỗn hợp, tốt nhất là sử dụng một máy khuấy, ở tốc độ 10 đến 50 vòng/phút để tạo thành hỗn hợp nhũ tương.
- Làm nguội hỗn hợp này đến 45°C tốt hơn là bằng nước lạnh, tốt nhất là ở nhiệt độ 8°C đến 15°C.
- Trong bình API bổ sung đồng dung môi, được chọn từ nhóm bao gồm Propylene Glycol, Hexylene Glycol, PolyEthylene Glycol - 400; lượng chứa trong bình API này phải được xả bằng khí trơ, và hòa tan natri fusidat vào hỗn hợp.
- Điều chỉnh độ pH của hỗn hợp trong bình API xuống dưới 2 bằng cách sử dụng acid, bao gồm các acid như HCl, H2SO4, HNO3, Acid lactic.
- Chuyển lượng chứa trong bình API cũ sang bình trộn bằng cách khuấy liên tục ở tốc độ 10 đến 50 vòng/phút và đồng nhất hỗn hợp ở tốc độ 1000 đến 3000 vòng/phút trong điều kiện khí trơ và trong chân không từ âm 1000 đến âm 300mmHg, khí trơ tốt nhất là nitơ.
- Làm nguội bình trộn xuống 30°C đến 37°C bằng nước làm mát 8°C đến 15°C.

Điều chế Natri fusidat
Hòa tan Acid fusidic trong dung dịch cồn nồng độ thấp để thu được dung dịch Natri fusidat.
Cho dung dịch Etyl axetat vào dung dịch Natri fusidat để kết tinh Natri fusidat và thu thập chất rắn.
Làm khô chất rắn, nhờ đó thu được tinh thể Natri fusidat.
Cơ chế hoạt động
Acid fusidic là kháng sinh có cấu trúc steroid, nhóm fusidanin, có tác dụng kìm khuẩn và diệt khuẩn, chủ yếu trên vi khuẩn Gram dương.
Cơ chế hoạt động của acid fusidic là ức chế quá trình tổng hợp protein trong vi khuẩn bằng cách ổn định phức hợp yếu tố kéo dài G (EF-G), dẫn đến việc cắt ngắn độ giãn dài của peptide. Nó tác động vào một yếu tố cần thiết cho sự chuyển đoạn của các đơn vị phụ peptid và kéo dài chuỗi peptide. Mặc dù acid fusidic cũng có khả năng ức chế tổng hợp protein trong tế bào động vật có vú, nhưng nó không thâm nhập vào tế bào chủ một cách hiệu quả. Do đó, thuốc này có tác dụng chọn lọc chống lại các chủng vi khuẩn nhạy cảm.

Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Chondrus crispusa là gì?

Chondrus crispus là chiết xuất có nguồn gốc từ rêu Ireland hay còn gọi là rêu Carrageenan, một loài tảo đỏ mọc trải dài dọc theo các hốc đá của bờ biển Đại Tây Dương của châu Âu và Bắc Mỹ.
Đây là một loại tảo có kích thước khá nhỏ với chiều dài có thể lên đến 20 cm. Tảo phát triển từ rễ giả dạng đĩa gọi là Holdfast có chức năng bám nhưng không có chức năng hút chất dinh dưỡng cung cấp cho vật chủ, nhánh được phân đôi thành bốn đến năm lần tạo thành cấu trúc hình quạt. Hình thái rất dễ thay đổi, đặc biệt là độ rộng của các tản. Mỗi nhánh rêu có kích thước bề rộng khoảng 2mm và có kết cấu vững chắc với các màu sắc từ nhạt đến xanh đậm, đỏ sẫm, tím, nâu, vàng và trắng. Các giao tử mang ánh kim màu xanh lam ở đầu của lá và các bào tử sinh sản mang hoa văn đốm.
Ở trạng thái tươi tốt, rêu tươi mềm và có sụn, có nhiều màu khác nhau từ vàng lục, đỏ, đến tím đậm hoặc nâu tím.
Ở trạng thái khô, loài tảo này có thành phần gồm khoảng 15% chất khoáng và khoảng 10% protein với hàm lượng giàu iod và lưu huỳnh. Khi được ngâm trong nước, tảo Ireland có mùi giống như nước biển do hàm lượng các polysacarit trong thành tế bào lớn. Khi được đun sôi, loại tảo này sẽ tạo thành một loại gelatin, nặng từ 20 đến 100 lần trọng lượng của nước.
Sau khi rửa tảo với nước và phơi khô để bảo quản, chúng sẽ có một cạnh màu vàng, mờ, giống như sừng và ở trạng thái cứng.
Chondrus crispusa là một nguồn dinh dưỡng dồi dào bổ sung cho da, bao gồm beta-carotene và chất tăng cường tế bào mạnh mẽ như zeaxanthin, lutein, giúp bảo vệ da khỏi tác động rõ ràng của ánh sáng xanh.
Trong tảo đỏ thường chứa các polysaccharide, peptide và axit amin cũng giúp làn da được ngậm nước.
Điều chế sản xuất
Chondrus crispusa được sản xuất thông qua quá trình làm lạnh để tránh mất dưỡng chất trong quá trình xử lý nhiệt. Chiết xuất thu được từ nguồn nguyên liệu hữu cơ, do đó không chứa thuốc trừ sâu. Sau đó cô đặc lại rồi hòa tan trong glycerin và nước ở nồng độ 20% (chiết xuất) và 80% (chất pha loãng).
Cơ chế hoạt động
Nhờ đặc tính mô phỏng sinh học giữa protein da, chiết xuất rêu Ireland có tác dụng cải thiện làn da trông tươi mới, làm giảm đáng kể sự mất nước qua biểu bì, từ đó giúp dưỡng ẩm da tốt hơn, mang đến làn da mịn màng hơn.
Tea Tree Oil là gì?
Tea Tree Oil (Tinh dầu tràm trà) là chất lỏng không màu hoặc màu vàng nhạt, được chiết xuất từ lá cây trà (Melaleuca alternifolia), mọc ở vùng đầm lầy ven biển phía Đông Nam Queensland và bờ biển Đông Bắc New South Wales của nước Úc. Tinh dầu có mùi thơm đặc trưng khiến người dùng cảm thấy thư giãn, dễ chịu.

Tea Tree Oil có thành phần hóa học gồm 28 – 30 hợp chất khác nhau, trong đó chủ yếu là:
Terpinen-4-ol (46,6%): Nguyên liệu dùng để sản xuất các loại thuốc sát khuẩn và nấm đặc hiệu dưới dạng thuốc bôi hoặc dạng hít.
Cineol (1,8 – 2,4%): Có mùi thơm mát, hơi cay, được dùng trong ngành dược phẩm, mỹ phẩm (đặc biệt là nước hoa) và trong các sản phẩm xua đuổi côn trùng. Chất này còn là phụ gia cho thuốc lá.
Terpinenene: Chiếm 10 – 25% và Terpinene chiếm 18,6 – 23,65%.
Những người thổ dân ở Úc có truyền thống sử dụng Tea Tree Oil như một chất khử trùng (diệt vi trùng) và một loại thuốc thảo dược.
Ngày nay, việc sử dụng tinh dầu này để bôi ngoài da được khuyến khích đối với nhiều tình trạng khác nhau như mụn trứng cá, nấm da chân, chấy, nấm móng tay, vết cắt, nhiễm trùng ve ở đáy mí mắt và côn trùng cắn.
Điều chế sản xuất
Tea Tree Oil được tạo ra từ quá trình chưng cất hơi nước của lá cây trà ở Úc.
Cơ chế hoạt động
Các hoạt chất trong Tea Tree Oil có khả năng giết chết các loại vi khuẩn gây mụn, gây nấm và giúp giảm phản ứng dị ứng da. Dựa vào những công dụng này mà Tea Tree Oil được sử dụng phổ biến trong ngành mỹ phẩm, làm đẹp, nhất là trong các sản phẩm trị mụn.
Propanediol là gì?
Propanediol (hay 1,3-propanediol) là một glycol, công thức hóa học là C3H8O2. Propanediol tồn tại ở dạng lỏng, trong suốt, có mùi đặc trưng nhẹ, tan trong nước.
Là chất giữ ẩm tự nhiên cho da, Propanediol có khả năng thúc đẩy hoạt động của chất bảo quản trong công thức mỹ phẩm, làm giảm bớt lượng chất bảo quản.

Propanediol được sản xuất bằng công nghệ lên men từ đường ngô. Nhờ khá nhạy bén và hoạt động ổn định bền vững trong đa dạng điều kiện môi trường, Propanediol được dùng thay thế các loại chất glycols có nguồn gốc từ dầu mỏ không tốt cho da (chẳng hạn như propylene glycol, butylenes glycol hoặc glycerin trong công thức).
Chúng ta dễ dàng tìm thấy propanediol trong các sản phẩm chăm sóc cá nhân: Kem dưỡng da, sữa rửa mặt, toner và các sản phẩm khác. Trong chăm sóc da, propanediol hoạt động như một dung môi, chất giữ ẩm, chất làm mềm.
Điều chế sản xuất Propanediol
Propylene glycol là một sản phẩm tổng hợp thu được từ quá trình hydrat hóa propylene oxide từ các sản phẩm dầu mỏ.
Propanediol có thể được sản xuất từ propylene oxide nhưng phương pháp sản xuất tự nhiên từ ngô đang được ưu tiên ở những công ty sản xuất mỹ phẩm sạch.
Quy trình sản xuất từ ngô như sau: Thu hoạch và làm khô hạt ngô, sau đó để vỏ ngô mềm hơn người ta đem ngâm chúng vào nước ấm/acid nhẹ. Tiếp theo sẽ tiến hành tách tinh bột ra khỏi protein, đường thu được từ bột protein chính là nguyên liệu thô của propanediol. Cuối cùng, thêm vi sinh vật vào propanediol thô. Quá trình lên men kết thúc, propanediol được tinh chế và tinh luyện.
So với quy trình hóa dầu thông thường thì sản xuất propanediol từ ngô có hiệu quả năng lượng cao hơn, không gây hại môi trường. Ngoài ra, quy trình này cũng ít tốn kém chi phí vận hành hơn, tính bền vững cũng cao hơn do nguyên liệu ngô có thể tái tạo dễ dàng.
Sodium Benzoate là gì?
Sodium Benzoate (hay còn gọi Natri Benzoate), công thức hóa học là C6H5COONa, muối của acid benzoic, có dạng bột trắng, không mùi, có tính tan mạnh trong nước, là một trong số 29 chất được dùng như chất phụ gia thực phẩm.
Sodium Benzoate là một chất bảo quản vì có khả năng tiêu diệt nấm mốc và vi khuẩn, thường dùng làm chất bảo quản trong các loại bánh kẹo, mứt, nước hoa quả, nước ngọt có gas, các loại nước xốt, súp thịt, ngũ cốc, sản phẩm từ thịt gia súc, gia cầm, thủy sản, nước chấm, sữa lên men, cà phê…

Ngoài ra, Sodium Benzoate còn được dùng trong kem đánh răng, hóa mỹ phẩm, dược phẩm như một chất bảo quản trong mỹ phẩm (ký hiệu quốc tế là E. 211). Theo quy ước đặc tính gây độc của Tổ chức quản lý độc chất quốc tế, Sodium Benzoate được xếp vào nhóm không gây ung thư, mà thuộc nhóm “Một số người cần tránh” (Certain people should avoid), vì nó có thể gây dị ứng cho đối tượng có cơ địa “nhạy cảm với hóa chất” (tương tự bột ngọt, đường lactose, sulphite…).
Bên cạnh đó, Sodium Benzoate còn là chất tạo hương thơm và chống ăn mòn cho sản phẩm. Khi kết hợp với caffeine trong Caffeine Sodium Benzoate, nó có thể có tác dụng chống nắng, và cung cấp màng bảo vệ UVB và chống oxy hóa cho da.
Ngoài dạng được điều chế hóa học, Sodium Benzoate cũng có thể được tìm thấy tự nhiên trong các loại trái cây như trái việt quất (cranberry), đào, mận, nho, táo, quế (thành phần chính là cinnamic acid, chất đồng chuyển hóa của benzoic acid), cây đinh hương (clove), nhóm cây bách (berries)… với hàm lượng từ 10-20mg/kg.
Điều chế sản xuất Sodium Benzoate
Sodium Benzoate được sản xuất bằng cách trung hòa axit benzoic với natri bicarbonate, natri cacbonat hoặc natri hydroxit.
Cơ chế hoạt động của Sodium Benzoate
Cơ chế hoạt động bảo quản của Sodium Benzoate hoặc Natri Benzoat phụ thuộc vào các phân tử undissociated, lipophilic không dissociable axit Benzoic E210 là mạnh mẽ, và dễ dàng đi qua màng tế bào, sau đó nhập vào trong tế bào, can thiệp với các mốc và vi khuẩn và tính thấm của màng tế bào vi khuẩn, cản trở sự hấp thụ của màng tế bào chống lại các axit amin.

Sodium Benzoate truy cập vào tế bào nội bào, có thể acid lí nội bào và ức chế hoạt động của các enzym hô hấp tế bào vi khuẩn, chơi một tác dụng bảo quản.
Benzoates là chất kháng sinh phổ rộng hoạt động tốt chống nấm men, nấm mốc và một số vi khuẩn, và ức chế các vi khuẩn khác nhau ở pH 4-5 dưới tầm bắn tối đa cho phép sử dụng.
Magnesium Aluminum Silicate là gì?
Magnesium aluminum silicate (hay Magie nhôm silicat) là một khoáng chất tự nhiên, nguồn gốc từ quặng silicat của đất sét smectite. Magnesium aluminum silicate được tinh chế thành dạng bột, khô, rắn màu trắng để dùng trong lĩnh vực sản xuất dược, mỹ phẩm.
Magnesium aluminum silicate có đặc tính ổn định được trong cả nhũ tương dầu trong nước (o/w) và nhũ tương nước trong dầu (w/o) ở tỷ lệ thấp (tầm 1-2%), chứa các chất hoạt động bề mặt anion hoặc không ion.

Khoáng chất này không tan trong nước nhưng có thể phân tán trong nước, độ pH 9.5, độ nhớt 500cps (dung dịch 4%). Magnesium aluminum silicate không thể được hấp thụ vào da do thành phần các phân tử có kích thước lớn. Trong đời sống, Magnesium aluminum silicate thường được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm cần có độ pH cao như kem tẩy lông, sản phẩm tạo kiểu tóc và các sản phẩm chăm sóc tóc.
Cơ chế hoạt động của Magnesium aluminum silicate
Magnesium aluminum silicate là một loại đất sét, gồm các tiểu cầu có tích điện âm trên bề mặt và tích điện dương ở bên cạnh nên mặt của một tiểu cầu này sẽ hút cạnh của tiểu cầu kia và tạo ra cấu trúc “house of cards” để làm dày kết cấu sản phẩm và giúp đình chỉ các thành phần không hòa tan như chất tạo màu, hoặc thành phần chống nắng vô cơ (zinc dioxide và titanium dioxide).
Cấu trúc “house of cards” có đặc tính là tốn nhiều thời gian để hình thành nhưng chỉ cần bị tác động (chẳng hạn như các động tác khuấy, thoa) thì nó rất dễ bị sụp đổ. Chính vì vậy mà những sản phẩm được làm đặc bằng Magnesium aluminum silicate thường có kết cấu dày khi ở trong bao bì nhưng sẽ nhanh “tan” ra khi sử dụng.

Magnesium aluminum silicate được đánh giá cao khi có thể mang lại cho sản phẩm một kết cấu khá dễ chịu, không bết dính mà còn rất mướt mịn. Magnesium aluminum silicate cũng là chất kết hợp tốt với các thành phần làm đặc/làm dày kết cấu khác, cụ thể như Cellulose Gum hay Xanthan Gum...
Myristic Acid là gì?
Myristic Acid là một acid béo bão hòa thu được trong quá trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Các loại bơ đậu, dầu dừa, dầu cọ, hạnh nhân… có thành phần tự nhiên chứa hàm lượng dồi dào Myristic Acid.

Tồn tại ở dạng tinh thể rắn, có màu trắng, Myristic Acid có thể tan trong nước, dung môi hữu cơ, ethanol, DMSO…
Người ta sử dụng Myristic Acid làm nguyên liệu thô, chất hoạt động bề mặc cũng như là sản xuất chất nhũ hóa. Trong các loại este, hương hoặc công thức mỹ phẩm, Myristic Acid hoạt động với khả năng nhũ hóa và làm chất hoạt động.
Điều chế sản xuất Myristic Acid
Myristic Acid được tổng hợp tự nhiên trong bơ của cây nhục đậu khấu, ở phần lớn các động vật, chất béo thực vật.
Myristic Acid được sản xuất bằng phương pháp tổng hợp hóa học, điện phân methyl hydrogen adipate và acid decanoic acid hoặc bằng quá trình oxy hóa Maurer của ancol myristic.
Pepsin là gì?
Pepsin là enzyme có tác dụng phân hủy trực tiếp protein thành các peptide nhỏ hơn (protease). Được sản xuất trong dạ dày, pepsin là enzym tiêu hóa chính trong hệ thống tiêu hóa của chúng ta, giúp tiêu hóa protein từ thức ăn.
Cùng với chymotrypsin và trypsin, pepsin đảm nhận vai trò cắt đứt liên kết giữa các axit amin, đồng thời phá vỡ các cấu trúc protein thức ăn thành các phần nhỏ hơn để ruột non có thể hấp thụ dinh dưỡng dễ dàng hơn. Pepsin hoạt động rất hiệu quả khi cắt các liên kết peptide kỵ nước với axit amin thơm (phenylalanine, tryptophan và tyrosine).

Năm 1836, pepsin được phát hiện bởi nhà tế bào học, mô học, sinh lý học người Đức Theodor Schwann. Tên gọi pepsin được đặt theo tiếng Hy Lạp của từ πέψις pepsis, nghĩa là "tiêu hóa". Về sau, các nhà khoa học bắt đầu khám phá ra nhiều hợp chất sinh hóa mới, trong đó có pepsin - một chất có tính axit chuyển đổi thức ăn dạng nitơ dựa vào vật liệu hòa tan trong nước.
Năm 1928, pepsin là enzyme đầu tiên được kết tinh protein khi John H. Northrop tinh chế dùng trong lọc máu, lọc nước và làm mát.
Pepsin được biểu hiện như một zymogen gọi là pepsinogen, có cấu trúc chính với 44 axit amin được bổ sung vào. Zymogen này được kích hoạt bằng axit hydrochloric (HCl), được thoát ra từ các tế bào thành trong niêm mạc dạ dày. Các hormone gastrin và dây thần kinh phế vị kích thích pepsinogen và HCl tiết ra từ dạ dày khi thức ăn được tiêu hóa. Axit clohidric làm cho môi trường dạ dày có tính axit, cho phép pepsinogen được kích hoạt và tách riêng trong một chất xúc tác riêng do đó tạo thành các pepsin hoạt động. Như vậy, tiền thân của pepsin chính là pepsinogen.
Trong môi trường axit, pepsin hoạt động ổn định trong khoảng từ 37°C-42°C, hoạt động mạnh nhất trong dạ dày ở độ pH 1,5-2. Việc bảo quản pepsin nên ở nhiệt độ từ -80°C và - 20°C để ngăn chặn autolysis (tự tiêu hóa).
Điều chế sản xuất pepsin
Pepsin thương mại được tách từ lớp tuyến tiết dạ dày lợn, là thành phần của men dịch vị được sử dụng để đông sữa trong khi sản xuất pho mát.

Cơ chế hoạt động
Pepsin có nhiệm vụ phân hủy protein thành acid amin và peptide. Tiếp đó, pepsin lại hoạt động để phá vỡ các liên kết peptit giữa acid amin với chuỗi bên kỵ nước trong Polypeptide.
Với cùng cách thức, chúng làm thay đổi chiều dài chuỗi Polypeptide thành các Polypeptide ngắn để quá trình tiêu hóa thức ăn được diễn ra nhanh hơn, từ đó làm giảm thiểu kích thích dạ dày.
Myristyl Myristate là gì?
Myristyl myristate là một este có nguồn gốc tự nhiên, là kết quả của sự kết hợp giữa myristyl alcohol (rượu myristyl) và axit myristic.
Myristyl alcohol là loại rượu béo bão hòa mạch thẳng, còn axit myristic là một axit béo bão hòa với 14 nguyên tử carbon. Hai thành phần này đều được đặt tên theo tên khoa học của hạt nhục đậu khấu (Myristica Fragrans).

Năm 1841, Myristyl myristate được phân lập lần đầu tiên bởi nhà khoa học Lyon Playfair. Một số loại dầu và chất béo, bao gồm bơ hạt nhục đậu khấu có chứa 75% trimyristin - chất béo trung tính của axit myristic. Ngoài ra, trong dầu hạt cọ, dầu dừa, bơ, sữa bò, sữa mẹ cũng có chứa axit myristic. Chất này tồn tại dưới dạng chất rắn màu trắng hoặc hơi vàng.
Ở nồng độ 1 đến 10%, myristyl myristate có thể được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc da và chăm sóc cá nhân, bao gồm các loại phấn mắt, xà phòng, chất tẩy rửa, sản phẩm chăm sóc tóc - da đầu, sản phẩm chăm sóc móng, sản phẩm cạo râu và các sản phẩm chăm sóc da khác.
Cetrimonium Chloride là gì?
Cetrimonium Chloride, Cetrimonium Bromide và Steartrimonium Chloride là các muối amoni bậc bốn được dùng rất phổ biến trong các sản phẩm chăm sóc cá nhân. Cetrimonium Chloride có đặc tính như tan trong nước, là chất hoạt động bề mặt và có khả năng kháng khuẩn, chống viêm.

Cetrimonium Chloride tồn tại ở dạng chất lỏng màu vàng nhạt, mùi nồng, có thể tương thích với chất hoạt động bề mặt không ion, cation và các dung môi phân cực. Nhờ những đặc tính kể trên mà các nhà sản xuất chuộng sử dụng Cetrimonium Chloride trong các sản phẩm chăm sóc tóc để giúp người dùng giải quyết các vấn đề hư tổn của tóc do làm tóc và nhiệt độ quá cao.
Bên cạnh đó, Cetrimonium Chloride còn được sử dụng như là một loại chất hoạt động bề mặt hiệu quả, nó có khả năng cân bằng điện tích trên bề mặt tóc giúp tóc mượt mà hơn trong thời tiết lạnh, khô…
Dipotassium Glycyrrhizate là gì?
Dipotassium glycyrrhizate (DPG) là muối kali của acid glycyrrhizic (glycyrrhizin) – thành phần chính trong chiết xuất rễ cây cam thảo Glycyrrhiza glabra, họ đậu Fabaceae.
Trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân, các nhà sản xuất đã đưa vào Dipotassium glycyrrhizate nhằm mục đích nuôi dưỡng, kháng viêm và làm dịu da, đồng thời cũng là chất nhũ hóa và tạo gel cho sản phẩm. Dipotassium Glycyrrhizate có tác dụng dưỡng da, giúp làm dịu làn da bị kích ứng và hỗ trợ cải thiện kết cấu công thức.

Dipotassium Glycyrrhizate phù hợp với mọi loại da, trừ những người được xác định là dị ứng với nó. Tuy nhiên, nhược điểm của Dipotassium glycyrrhizate là không được hấp thụ tốt vào da.
Bên cạnh đó, từ hàng nghìn năm trước, chiết xuất rễ cây cam thảo đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc với công dụng nổi tiếng là làm dịu vùng mô bị viêm cũng như hỗ trợ loại bỏ đờm và chất nhầy ra khỏi đường hô hấp. Do đó, cam thảo có thể chữa được mọi thứ từ cảm lạnh thông thường cho đến bệnh gan.
Điều chế sản xuất Dipotassium Glycyrrhizate
Dipotassium Glycyrrhizinate là hoạt chất tinh chế từ rễ cam thảo, dạng bột, tan nước có khả năng kháng viêm tốt. Nhiều người sẽ lầm tưởng bột cam thảo nào cũng có tác dụng kháng viêm và giảm kích ứng tốt như nhau nhưng Dipotassium Glycyrrhizinate là thành phần chiết xuất đặc biệt của cam thảo, chỉ lấy những phần cần thiết trong cam thảo để phục vụ mục đích kháng viêm, kháng khuẩn, làm trắng và chống kích ứng da thôi, nên hiệu quả nó vượt trội so với bột cam thảo hay nước chiết xuất cam thảo bình thường.

Cơ chế hoạt động của Dipotassium Glycyrrhizate
Dipotassium Glycyrrhizinate là một chất chống viêm được sử dụng rộng rãi được phân lập từ rễ cây cam thảo. Nó được chuyển hóa thành Glycyrhetinic Acid, ức chế 11-beta-Hydroxysteroid Dehydrogenases và các enzym khác liên quan đến quá trình chuyển hóa Corticosteroids.
Dipotassium Glycyrrhizinate có khả năng làm sáng da đáng kể nhờ vào việc ức chế sắc tố, phân tán melanin, ức chế sinh tổng hợp melanin và ức chế enzym cyclooxygenase. Nói dễ hiểu thì Dipotassium Glycyrrhizinate ức chế không cho melanin di chuyển và xuất hiện trên bề mặt da.
Poria Cocos Extract là gì?
Poria Cocos Extract là chiết xuất từ nấm Phục Linh - loài nấm thuộc chi Wolfiporia trong họ Polyporaceae. Trong y học cổ truyền, nấm phục linh là một vị thuốc thường được sử dụng với công dụng giúp bồi bổ cơ thể.
Nấm Phục linh mọc hoại sinh trên rễ cây thông. Quả thể hình khối to, có màu xám đen ở mặt ngoài, nhăn nheo, có khi hình bướu. Khi cắt ngang loại nấm này chúng ta sẽ thấy mặt lổn nhổn màu trắng hoặc hồng xám (đôi khi có rễ thông ở giữa nấm).

Bộ phận thường dùng là quả thể nấm (Poria, thường gọi là Phục linh). Dựa vào màu trắng, người ta phân biệt loại màu trắng gọi là Bạch linh, loại hồng xám gọi là Phục linh, còn Phục thần là loại có rễ thông đâm xuyên giữa.
Nấm thường được thu hoạch vào tháng 10-11 sau tiết lập thu. Sau khi nấm được đào lên sẽ ngâm nước một ngày, rửa sạch, gọt bỏ vỏ, đồ lên, thái mỏng 2-3mm, phơi hay sấy khô. Tùy theo mục đích sử dụng mà quá trình xử lý nấm sẽ khác nhau. Chúng ta có thể dùng nấm sắc với thuốc thang, hoặc chiết xuất nấm để dùng trong mục đích làm đẹp.
Dù là hình thức sử dụng nào thì nấm Phục linh và chiết xuất từ loại nấm này cũng mang lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe cơ thể lẫn làn da.
Tìm hiểu chung
Propyl Hydroxybenzoate là một nhóm các thành phần bảo quản được sử dụng trong mỹ phẩm, sản phẩm vệ sinh cá nhân, thực phẩm và dược phẩm. Chúng có hiệu quả cao trong việc ngăn chặn sự phát triển của nấm, vi khuẩn và nấm men có thể gây hư hỏng sản phẩm.
Propylparaben hay Propyl Hydroxybenzoate được phân loại như một paraben, một nhóm chất bảo quản có chức năng và hoạt động chống vi khuẩn hơi khác nhau dựa trên kích thước của chúng. Công thức hóa học của Propyl Hydroxybenzoate C10H12O3.
Công thức hóa học của Propyl Hydroxybenzoate
Propyl Hydroxybenzoate là một chất kết tinh màu trắng và không mùi, có vị hơi kim loại. Những chất này có khả năng chống thủy phân và có thể hoạt động tốt trong khoảng pH từ 4,5 – 7,5. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động của paraben không đặc hiệu. Như đã đề cập trước đó, paraben được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm mỹ phẩm, và nhiều người tiếp xúc với paraben.
Điều chế sản xuất
Propyl Hydroxybenzoate có nguồn gốc từ axit para-hydroxybenzoic (PHBA) xuất hiện tự nhiên trong nhiều loại trái cây và rau quả, chẳng hạn như dưa chuột, anh đào, cà rốt, quả việt quất và hành tây. PHBA cũng được hình thành tự nhiên trong cơ thể con người do sự phân hủy của một số axit amin.
Các sản phẩm thực phẩm điển hình có chứa paraben để bảo quản, bao gồm bia, nước sốt, món tráng miệng, nước ngọt, mứt, dưa chua, các sản phẩm từ sữa đông lạnh, rau chế biến và xi-rô tạo hương vị. Một số loại trái cây, chẳng hạn như quả việt quất, có chứa paraben như một chất bảo quản tự nhiên.
Cơ chế hoạt động
Cơ chế của Propyl Hydroxybenzoate có thể liên quan đến suy ty thể phụ thuộc vào sự cảm ứng chuyển đổi tính thấm màng kèm theo sự khử cực của ty thể và sự cạn kiệt ATP của tế bào thông qua sự tách rời của quá trình phosphoryl hóa oxy hóa.
Sản phẩm liên quan









