Viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ là gì? Nguyên nhân gây bệnh, phương pháp điều trị và nguyên tắc phòng ngừa
Viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ là một bệnh nhiễm trùng khớp tiến triển trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày. Nhiễm trùng trong các mô hoạt dịch hoặc nhu mô và thường do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra. Tuy nhiên, nhiễm trùng do vi khuẩn không phải mô cầu cũng có thể xảy ra và phá hủy nhanh chóng các cấu trúc khớp. Các triệu chứng bao gồm cơn đau khởi phát nhanh chóng, tràn dịch, hạn chế cử động chủ động và thụ động, thường là ở một khớp. Chẩn đoán bệnh cần phân tích và nuôi cấy dịch khớp. Điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch và dẫn lưu mủ ra khỏi khớp.
Những dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ thường xảy ra cấp tính, gồm hai bệnh cảnh:
Viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu cầu
90% trường hợp xảy ra ở một khớp đơn độc, hay gặp nhất là khớp đầu gối.
Triệu chứng tại khớp: Sưng nóng đỏ đau (triệu chứng viêm), có thể tràn dịch khớp, co cơ và hạn chế vận động.
Hội chứng nhiễm trùng: Sốt kèm rét run, lưỡi bẩn, hơi thở hôi và môi khô.
Nhiễm khuẩn khớp do lậu cầu
Hội chứng nhiễm khuẩn lậu cầu phát tán: Rét run, sốt, mụn mủ và phát ban đỏ ngoài da kèm triệu chứng viêm khớp, triệu chứng tại bộ phận sinh dục như đái rắt, đái buốt, đái có lẫn máu và mủ… Tình trạng viêm xảy ra tại nhiều khớp nhỏ có tính chất di chuyển kèm viêm bao hoạt dịch gân.
Viêm khớp thực sự do lậu cầu: Tổn thương một khớp đơn độc như đầu gối, cổ tay, cổ chân, háng với triệu chứng sưng nóng đỏ đau và có thể tràn dịch khớp. Đôi khi kèm theo triệu chứng viêm nhiễm đường sinh dục tiết niệu, như đái rắt, đái buốt, đái lẫn máu mủ…
Biến chứng có thể gặp khi mắc bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Nếu trì hoãn điều trị, viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ tiến triển nặng, dẫn đến thoái hóa khớp và tổn thương vĩnh viễn. Nếu bệnh nhân viêm khớp nhiễm khuẩn tại các khớp nhân tạo, có thể gây lỏng khớp hoặc trật khớp.
Khi nào cần gặp bác sĩ?
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Những ai có nguy cơ mắc phải viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ?
Mọi đối tượng đều có nguy cơ mắc viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ.
Yếu tố làm tăng nguy cơ mắc phải viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ, bao gồm:
-
Đang hoặc đã từng mắc bệnh lý ở khớp: Như viêm xương khớp, bệnh gout, viêm khớp dạng thấp hoặc lupus - làm tăng nguy cơ mắc viêm khớp nhiễm khuẩn, cũng như phẫu thuật khớp và chấn thương khớp trước đó.
-
Có khớp nhân tạo: Vi khuẩn đi vào khớp trong quá trình phẫu thuật thay khớp hoặc khớp nhân tạo hoặc di chuyển đến khớp từ cơ quan khác của cơ thể qua đường máu.
-
Đang dùng thuốc điều trị viêm khớp dạng thấp: Những người bị viêm khớp dạng thấp có nguy cơ tăng cao vì các loại thuốc họ dùng có thể ức chế hệ thống miễn dịch, làm cho nhiễm trùng dễ xảy ra hơn. Chẩn đoán viêm khớp nhiễm trùng ở những người bị viêm khớp dạng thấp rất khó vì nhiều dấu hiệu và triệu chứng tương tự nhau.
-
Da mỏng: Da dễ bị rách và chậm lành có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Các bệnh về da như vẩy nến và chàm làm tăng nguy cơ bị viêm khớp nhiễm trùng, cũng như các vết thương trên da bị nhiễm trùng. Những người thường xuyên tiêm chích ma túy cũng có nguy cơ bị nhiễm trùng tại chỗ tiêm cao hơn.
-
Hệ thống miễn dịch suy giảm: Những người có hệ thống miễn dịch kém có nguy cơ bị viêm khớp nhiễm trùng cao hơn như bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, các vấn đề về thận và gan, và những người dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch.
- Chấn thương khớp: Động vật cắn, vết thương đâm thủng hoặc vết cắt trên khớp có thể gây tăng nguy cơ bị viêm khớp nhiễm trùng.
Nguyên nhân dẫn đến viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Có hai nguyên nhân gây bệnh chính:
Viêm khớp nhiễm khuẩn do lậu cầu (gonococcal bacterial/ suppurative arthritis): Tác nhân gây bệnh là lậu cầu khuẩn (Neisseria gonorrhoeae), chiếm 70 - 75% trường hợp nhiễm khuẩn khớp ở người lớn < 40 tuổi.
Viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu cầu (nongonococcal bacterial/ suppurative arthritis): Thường do vi khuẩn gram dương như tụ cầu vàng Staphylococcus aureus (50 - 70% trường hợp), liên cầu Streptococcus (20%), phế cầu Streptococcus pneumoniae... Ít gặp vi khuẩn gram âm hơn (15 - 20%), bao gồm: E.coli, thương hàn Salmonella, trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa, Haemophilus influenza; vi khuẩn kỵ khí chỉ chiếm khoảng 5% trường hợp. Khoảng 5 - 10% trường hợp bệnh nhân nhiễm đồng thời nhiều loại vi khuẩn và thường gặp sau chấn thương.
Những thói quen sinh hoạt có thể giúp bạn hạn chế diễn tiến của viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Chế độ sinh hoạt:
-
Tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ trong việc điều trị.
-
Duy trì lối sống tích cực, hạn chế sự căng thẳng.
-
Liên hệ ngay với bác sĩ khi cơ thể có những bất thường trong quá trình điều trị.
-
Thăm khám định kỳ để được theo dõi tình trạng sức khỏe, diễn tiến của bệnh và để bác sĩ tìm hướng điều trị phù hợp trong thời gian tiếp theo nếu bệnh chưa có dấu hiệu thuyên giảm.
-
Bệnh nhân cần lạc quan. Tâm lý có ảnh hưởng rất lớn đến điều trị, hãy nói chuyện với những người đáng tin cậy, chia sẻ với những thành viên trong gia đình, nuôi thú cưng hay đơn giản là đọc sách, làm bất cứ thứ gì khiến bạn thấy thoải mái.
-
Tránh vận động cường độ mạnh, đặc biệt ở những khớp đang có tình trạng viêm hoặc vừa mới được điều trị.
-
Quan hệ tình dục an toàn. Nếu có triệu chứng bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, cần thăm khám ngay để được điều trị kịp thời.
Chế độ dinh dưỡng:
Ăn uống chế độ lành mạnh bao gồm nhiều trái cây tươi, rau, ngũ cốc nguyên hạt và protein nạc là rất quan trọng để tăng cường sức khoẻ và hệ miễn dịch giúp chống lại bệnh tật.
Phương pháp phòng ngừa viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ hiệu quả
Để phòng ngừa bệnh hiệu quả, bạn có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây:
-
Thực hiện vô trùng tuyệt đối khi làm các thủ thuật, phẫu thuật tiến hành tại khớp.
-
Điều trị tốt các nhiễm khuẩn tại các cơ quan khác, đặc biệt tại da, phần mềm và xương.
-
Đối với bệnh lậu, phòng ngừa bằng cách quan hệ tình dục an toàn.
Phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ
Chọc dò khớp với kiểm tra và nuôi cấy dịch khớp;
Cấy máu;
Công thức máu và tốc độ lắng hồng cầu hoặc protein phản ứng C - CRP;
Xác định phân tử (phản ứng chuỗi polymerase);
Hình ảnh học.
Nghi ngờ bệnh nhân mắc viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ nếu bệnh nhân bị viêm đơn khớp hoặc viêm đa khớp cấp tính và bệnh nhân có các triệu chứng đặc trưng của các hội chứng viêm khớp nhiễm khuẩn (như viêm đa khớp lan toả, viêm bao gân và tổn thương da điển hình của nhiễm lậu cầu lan tỏa; hồng ban lan toả hoặc các triệu chứng và dấu hiệu khác của bệnh Lyme).
Ngay cả các triệu chứng nhẹ ở đơn khớp hoặc khớp đầu ngón cũng cần nghi ngờ nếu bệnh nhân đang dùng liệu pháp ức chế miễn dịch (corticosteroid, thuốc gây hoại tử khối u hoặc thuốc ức chế interleukin-6) với các yếu tố nguy cơ (viêm khớp dạng thấp), khớp giả hoặc có khả năng nhiễm trùng ngoài khớp lây lan đến khớp (nhiễm lậu cầu sinh dục, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, bất kỳ bệnh nhiễm trùng kỵ khí nào).
Viêm khớp nói chung
Xét nghiệm dịch khớp:
Là nền tảng để chẩn đoán nhiễm trùng khớp cấp. Dịch khớp được kiểm tra tổng thể, nhuộm Gram, nuôi cấy hiếu khí và kỵ khí, và soi tìm tinh thể lắng đọng. Dịch khớp có mùi hôi gợi ý nhiễm trùng kỵ khí. Dịch khớp bị nhiễm trùng cấp tính thường có số lượng bạch cầu (WBC) > 20.000/mcL (đôi khi > 100.000/mcL) bao gồm > 95% bạch cầu đa nhân trung tính.
Số lượng bạch cầu có xu hướng cao hơn ở vi khuẩn không mô cầu so với bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn do lậu cầu. Số lượng bạch cầu cũng có thể thấp hơn trong các trường hợp nhiễm trùng sớm hoặc được điều trị một phần. Nhuộm Gram chỉ phát hiện ra vi khuẩn trong 50 - 75% các khớp bị viêm khớp cấp tính do vi khuẩn, thường gặp nhất là do tụ cầu.
Sự hiện diện của các tinh thể không loại trừ viêm khớp nhiễm khuẩn cùng tồn tại. Đôi khi phân tích dịch khớp không thể phân biệt giữa hoạt dịch viêm nhiễm và các viêm nhiễm khác. Nếu không thể phân biệt được bằng lâm sàng hoặc xét nghiệm dịch khớp thì giả định là viêm khớp nhiễm trùng và chờ kết quả nuôi cấy.
Xét nghiệm máu:
Bao gồm cấy máu, công thức máu toàn bộ và tốc độ lắng hồng cầu (hoặc protein phản ứng C). Tuy nhiên, kết quả bình thường không loại trừ nhiễm trùng. Số lượng bạch cầu, tốc độ lắng hồng cầu hoặc protein phản ứng C có thể tăng lên trong viêm khớp không nhiễm trùng (bao gồm cả bệnh gout) cũng như viêm khớp nhiễm trùng.
Không nên dùng nồng độ urat huyết thanh để chẩn đoán hoặc loại trừ bệnh gout là nguyên nhân gây viêm khớp, bởi vì kết quả có thể bình thường hoặc thấp trong bệnh gout, và có thể cao với bệnh nhiễm khuẩn cấp tính khác.
Xét nghiệm phân tử (phản ứng chuỗi polymerase):
Để phát hiện trực tiếp các vi khuẩn trong bệnh phẩm. Gonococci có thể được phát hiện bằng xét nghiệm khuếch đại acid nucleic (NAAT) của các mẫu bệnh phẩm từ cổ tử cung, niệu đạo, hầu họng hoặc trực tràng. Một số sinh vật khó nuôi cấy, như Mycobacterium tuberculosis và Tropheryma whipplei, có thể được phát hiện trực tiếp trong dịch khớp bằng NAAT.
Chụp X-quang:
Khớp thường không chẩn đoán nhiễm trùng cấp tính nhưng có thể loại trừ các tình trạng khác (như gãy xương). Các bất thường trong viêm khớp cấp do vi khuẩn ban đầu chỉ giới hạn ở sưng mô mềm và các dấu hiệu của tràn dịch khớp. Sau 10 - 14 ngày không được điều trị, khớp có thể bị phá hủy (phá hủy sụn) và ăn mòn hoặc ổ viêm tủy xương dưới sụn. Nếu quan sát thấy có khí trong các khớp, có thể đang bị nhiễm Escherichia coli hoặc vi khuẩn kỵ khí.
MRI:
Được chỉ định không thể tiếp cận khớp không dễ dàng để khám và chọc hút (khớp trục). MRI hoặc siêu âm xác định được các vị trí tràn dịch hoặc áp xe để chọc hút hoặc dẫn lưu. MRI gợi ý sớm về viêm tủy xương kèm theo. Quét xương bằng technetium-99m có thể âm tính giả trong bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn. Ngoài ra, bởi vì chúng cho thấy sự hấp thu tăng lên khi tăng lưu lượng máu trong màng hoạt dịch bị viêm và trong xương có hoạt động trao đổi chất, có thể dương tính giả trong bệnh viêm khớp không do nhiễm trùng như bệnh gout. MRI không phân biệt được nhiễm trùng với viêm khớp do tinh thể .
Viêm khớp do lậu cầu
Nếu nghi ngờ viêm khớp do lậu cầu, cần cấy ngay các mẫu máu và dịch khớp trên thạch chocolate không chọn lọc, và các mẫu từ niệu đạo, âm đạo, trực tràng và hầu họng phải được cấy trên môi trường Thayer-Martin chọn lọc. Các xét nghiệm dựa trên acid nucleic thường được sử dụng để chẩn đoán nhiễm trùng lậu cầu sinh dục chỉ được thực hiện trên dịch khớp. Nuôi cấy mẫu sinh dục hoặc xét nghiệm DNA cũng được thực hiện. Cấy máu có thể dương tính trong tuần đầu tiên và có thể hỗ trợ chẩn đoán vi sinh.
Cấy dịch khớp từ các khớp bị viêm khớp mủ thường dương tính và dịch từ các tổn thương da có thể dương tính. Phản ứng lâm sàng với kháng sinh (dự đoán trong vòng 5 - 7 ngày) có thể giúp xác định chẩn đoán bệnh lậu.
Chẩn đoán xác định
Khi thoả mãn tối thiểu một trong hai tiêu chuẩn:
Xét nghiệm dịch khớp có mủ (tế bào dịch khớp trên 100.000/ml với > 80% là bạch cầu đa nhân trung tính hoặc phát hiện bạch cầu đa nhân trung tính thoái hóa) hoặc tìm thấy vi khuẩn bằng cách nhuộm Gram, soi tươi.
Cấy máu hoặc cấy dịch khớp dương tính với vi khuẩn.
Kết hợp với tối thiểu một trong hai tiêu chuẩn:
Triệu chứng lâm sàng điển hình cho bệnh cảnh viêm khớp.
Hình ảnh trên X quang viêm khớp điển hình.
Phương pháp điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ hiệu quả
Nguyên tắc điều trị
Chẩn đoán và chỉ định kháng sinh sớm. Thực hiện ngay cấy máu, nuôi cấy, soi tươi hoặc nhuộm gram dịch khớp để tìm vi khuẩn trước khi chỉ định kháng sinh.
Dựa vào kinh nghiệm, tình hình đề kháng kháng sinh tại cộng đồng, bệnh viện để chỉ định kháng sinh ban đầu. Dựa vào kết quả nhuộm gram, độ tuổi bệnh nhân, đường lây nhiễm để dự đoán loài vi khuẩn gây bệnh.
Chỉ định ít nhất một thuốc kháng sinh tiêm tĩnh mạch và thời gian điều trị kháng sinh thường là 4 - 6 tuần.
Can thiệp ngoại khoa, bất động khớp, dẫn lưu mủ khi cần thiết.
Điều trị kháng sinh
Viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ không do lậu cầu
Chưa có kết quả cấy máu và khớp dịch: Oxacillin hoặc nafcillin 2g tiêm tĩnh mạch (IV) mỗi 6 giờ (tương đương 8 g/ngày), hoặc clindamycin 2,4g IV/ngày chia thành 4 lần.
Soi tươi, nhuộm gram dịch khớp phát hiện cầu khuẩn gram dương: Oxacillin hoặc nafcillin 2g IV mỗi 6 giờ (tương đương 8 g/ngày), hoặc clindamycin 2,4g IV/ngày chia thành 4 lần.
Nghi nhiễm tụ cầu vàng đề kháng kháng sinh tại cộng đồng hay bệnh viện: Vancomycin 2g/ngày chia 2 lần truyền tĩnh mạch hoặc daptomycin 4 - 6 mg/kg thể trọng IV 1 lần/ngày hoặc teicoplanin 6mg/kg x 1 lần/ngày trong những ngày đầu; sau đó giảm còn 3 mg/kg IV hoặc tiêm bắp.
Nghi nhiễm trực khuẩn mủ xanh: Phối hợp ceftazidim 2 g/lần x 2 - 3 lần/ngày với kháng sinh aminoglycosid (ví dụ: Gentamycin 3 mg/kg x 1 lần/ngày tiêm bắp vào buổi sáng hoặc amikacin 15 mg/kg x 1 lần/ngày tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch).
Cấy máu, dịch khớp dương tính: Điều trị theo kháng sinh đồ hoặc duy trì điều trị ban đầu nếu đáp ứng tốt.
Nhiễm tụ cầu vàng nhạy cảm với kháng sinh: Oxacillin hoặc nafcillin hoặc clindamycin (liều như trên).
Nhiễm tụ cầu vàng kháng methicillin: Vancomycin hoặc daptomycin hoặc teicoplanin (liều như trên) trong 4 tuần.
Nhiễm phế cầu hoặc liên cầu nhạy với penicillin: Penicillin-G 2 triệu đơn vị IV mỗi 4 giờ trong 2 tuần.
Nhiễm H. influenzae và S. pneumoniae ức chế β-lactamase: Ceftriaxon 1 - 2 g x 1 lần/ngày, hoặc cefotaxim 1 g x 3 lần/ngày trong 2 tuần.
Nhiễm vi khuẩn gram âm đường ruột: Cephalosporin thế hệ 3 hoặc 4 IV trong 3 - 4 tuần, hoặc fluoroquinolon (levofloxacin 500mg IV hoặc uống mỗi 24 giờ).
Nhiễm trực khuẩn mủ xanh: Phối hợp kháng sinh aminoglycosid với ceftazidim 1g mỗi 8 giờ (hoặc mezlocillin 3g IV mỗi 4 giờ) trong khoảng 2 tuần. Sau đó dùng kháng sinh fluoroquinolon (như ciprofloxacin 500 mg uống 2 lần/ngày) phối hợp với ceftazidim hoặc đơn trị.
Viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ do lậu cầu
Lậu cầu nhạy cảm penicillin: Amoxicillin uống 500 mg/lần x 3 lần/ngày, hoặc ciprofloxacin uống 500 mg/lần x 2 lần/ngày (ngoại trú) trong 7 ngày.
Nghi ngờ lậu cầu kháng penicillin: Ceftriaxon 1g tiêm bắp hoặc IV mỗi 24 giờ trong 7 ngày. Sau đó, uống ciprofloxacin 500 mg x 2 lần/ngày; hoặc spectinomycin 2g tiêm bắp mỗi 12 giờ trong 7 ngày.
Nghi ngờ bội nhiễm Chlamydia trachomatis: Phối hợp doxycyclin uống 100mg x 2 lần/ngày hoặc tetracyclin 500 mg x 4 lần/ngày hoặc erythromycin 500 mg x 4 lần/ ngày trong 7ngày.
Ngoại khoa
Chỉ định phối hợp với kháng sinh trong điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn sinh mủ.
Hút, dẫn lưu dịch khớp khi có dịch mủ.
Nội soi rửa khớp: Sau 5 - 7 ngày điều trị bằng thuốc phù hợp kết hợp hút, dẫn lưu dịch khớp thất bại nhiều lần; hoặc dịch mủ đặc, có vách ngăn không hút được dịch khớp.
Phẫu thuật mở khớp loại bỏ tổ chức nhiễm khuẩn khi mô mềm lân cận, sụn khớp hay xương cũng bị nhiễm khuẩn; nhiễm khuẩn ở khớp nhân tạo (đa số trường hợp phải bỏ khớp nhân tạo, dùng kháng sinh IV tối thiểu 4 - 6 tuần, sau đó xem xét có làm lại khớp nhân tạo khác hay không); nhiễm khuẩn khớp sâu khó hút như khớp háng; nhiễm khuẩn khớp háng ở trẻ em (tránh tổn thương gây hư hại chỏm xương đùi).