Thuốc Kutab 10 Levis điều trị tâm thần phân liệt, giai đoạn hưng cảm vừa đến nặng (12 vỉ x 7 viên)
Danh mục
Thuốc thần kinh
Quy cách
Viên nén phân tán tan trong miệng - Hộp 12 Vỉ x 7 Viên
Thành phần
Olanzapine
Thương hiệu
Lesvi - LABORATORIOS LESVI S.L - TÂY BAN NHA
Xuất xứ
Việt Nam
Thuốc cần kê toa
Có
Số đăng kí
VN-16643-13
0 ₫/Hộp
(giá tham khảo)Kutab 10 là viên nén phân tán tại miệng chứa hoạt chất Olanzapine dùng trong điều trị tâm thần phân liệt, điều trị giai đoạn hưng cảm vừa đến nặng và dự phòng tái phát rối loạn lưỡng cực ở những bệnh nhân giai đoạn hưng cảm đã có đáp ứng với lần điều trị đầu tiên.
Cách dùng
Thuốc dạng viên dùng đường uống.
Liều dùng
Người lớn
Tâm thần phân liệt: Liều khuyến cáo của olanzapin là 10 mg/ngày.
Giai đoạn hưng cảm: Liều khởi đầu là 15mg hàng ngày, uống một lần duy nhất trong đơn liệu pháp hoặc 10 mg hàng ngày trong liệu pháp phối hợp thuốc.
Dự phòng tái phát trong rối loạn lưỡng cực: Liều khởi đầu đề nghị là 10 mg/ngày. Với những bệnh nhân đang sử dụng olanzapin để điều trị giai đoạn hưng cảm, tiếp tục dự phòng tái phát với cùng mức liều. Nếu ghi nhận giai đoạn hưng cảm, hỗn hợp hoặc trầm cảm mới xuất hiện, cần tiếp tục dùng olanzapin (với liều tối ưu theo nhu cầu) cùng với thuốc điều trị các triệu chứng cảm xúc tùy theo tình trạng bệnh trên lâm sàng.
Trong khi điều trị tâm thần phân liệt, giai đoạn hưng cảm và dự phòng tái phát rối loạn lưỡng cực, liều hàng ngày có thể thường xuyên được điều chỉnh trên cơ sở tình trạng lâm sàng của từng bệnh nhân trong phạm vi 5- 20 mg/ngày. Sự tăng liều lớn hơn liều khởi đầu khuyến cáo được khuyên dùng chỉ sau khi có đánh giá lâm sàng phù hợp và nên tăng dần dần sau ít nhất 24 giờ từ khi bắt đầu dùng thuốc. Olanzapin có thể được dùng trong hoặc ngoài bữa ăn vì độ hấp thu của thuốc không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Nên xem xét giảm liều dần dần khi ngừng điều trị bằng olanzapin
Trẻ em và thanh thiếu niên
Không khuyến cáo dùng olanzapin cho trẻ em và trẻ thanh thiếu niên dưới 18 tuổi vì thiếu dữ liệu về độ an toàn và hiệu quả. Sự tăng cân, thay đổi chất béo và prolactin lớn hơn đáng kể đã được báo cáo trong các nghiên cứu ngắn hạn ở bệnh nhân thanh thiếu niên nhiều so với các bệnh nhân trưởng thành.
Người già
Liều khởi đầu thấp hơn (5 mg/ngày) không thường xuyên được chỉ định nhưng có thể cân nhắc sử dụng cho bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên nếu các yếu tố lâm sàng cho phép.
Suy gan và suy thận
Liều khởi đầu thấp hơn (5mg/ngày) nên được cân nhắc ở những bệnh nhân này. Trong trường hợp suy gan trung bình (xơ gan, Child-Pugh A hoặc B), nên khởi đầuvới liều 5 mg và chỉ tăng liều khi có cảnh báo kèm theo
Giới tính
Liều khởi đầu và khoảng liều không cần phải thay đổi thường xuyên ở bệnh nhân nữ so với bệnh nhân nam
Người hút thuốc
Liều khởi đầu và khoảng liều không cần phải thay đổi thường xuyên ở người không hút thuốc so với người hút thuốc.
Khi có sự hiện diện của nhiều hơn một nhân tố mà có thể dẫn đến sự chuyển hoá thuốc chậm hơn (giới tính nữ, người già, tình trạng không hút thuốc), cần xem xét để giảm liều khởi đầu. Liều tăng dần, khi có chỉ định, nên được duy trì ở những bệnh nhân này.
Trong trường hợp tăng dần liều 2,5 mg được coi là cần thiết, nên sử dụng viên nén bao phim olanzapin.
Lưu ý: Liều dùng trên chỉ mang tính chất tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
Làm gì khi dùng quá liều?
Các dấu hiệu và triệu chứng
Triệu chứng rất phổ biến khi quá liều (tỷ lệ > 10%) bao gồm nhịp tim nhanh, kích động/gây hấn, chứng loạn cận ngôn, các triệu chứng ngoại tháp khác nhau, và mức độ giảm ý thức khác nhau từ an thần đến hôn mê.
Các di chứng có ý nghĩa y học khác của quá liều bao gồm mê sảng, co giật, hôn mê, hội chứng an thần kinh ác tính, suy giảm hô hấp, tăng huyết áp hoặc hạ huyết áp, loạn nhịp tim (< 2% các trường hợp quá liều) và ngưng tim phổi. Hậu quả gây tử vong đã được báo cáo cho quá liều cấp tính thấp nhất là 450 mg nhưng cũng có báo cáo sống sót sau khi dùng quá liều cấp tính khoảng 2g olanzapin đường uống.
Xử trí khi quá liều
Không có thuốc giải độc đặc hiệu đối với olanzapin. Không khuyến cáo gây nôn. Các biện pháp tiêu chuẩn để xử trí quá liều có thể được chỉ định (ví dụ rửa dạ dày, uống than hoạt tính). Sử dụng đồng thời than hoạt tính đã cho thấy làm giảm khoảng 50 - 60% sinh khả dụng đường uống của olanzapin.
Điều trị triệu chứng và giám sát chức năng của cơ quan quan trọng nên được thực hiện theo biểu hiện lâm sàng, bao gồm cả điều trị hạ huyết áp, trụy tuần hoàn và hỗ trợ chức năng hô hấp.
Không dùng epinephrin, dopamin, hoặc các thuốc kích thích giao cảm khác có hoạt tính chủ vận bêta, vì kích thích bêta có thể làm nặng thêm tình trạng hạ huyết áp. Cần theo dõi tim mạch để phát hiện những chứng loạn nhịp tim. Giám sát y tế chặt chẽ và cần tiếp tục theo dõi cho đến khi bệnh nhân hồi phục.
Trong trường hợp khẩn cấp, hãy gọi ngay cho Trung tâm cấp cứu 115 hoặc đến trạm Y tế địa phương gần nhất.
Làm gì khi quên 1 liều?
Bổ sung liều ngay khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu thời gian giãn cách với liều tiếp theo quá ngắn thì bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch dùng thuốc. Không dùng liều gấp đôi để bù cho liều đã bị bỏ lỡ.
Khi sử dụng thuốc thường gặp các tác dụng không mong muốn (ADR) như:
Người lớn
Các báo cáo các phản ứng bất lợi thường gặp nhất (được thấy trong ≥ 1% bệnh nhân) liên quan với việc sử dụng olanzapin trong các thử nghiệm lâm sàng là buồn ngủ, tăng cân, tăng bạch cầu ái toan, prolactin cao, cholesterol, glucose, và nồng độ triglycerid, glucose niệu, tăng cảm giác ngon miệng, chóng mặt, chứng ngồi/ nằm không yên, Parkinson, rối loạn vận động, hạ huyết áp tư thế đứng, tác dụng kháng cholinergic, tăng thoảng qua các transaminase gan không có triệu chứng, phát ban, suy nhược, mệt mỏi và phù nề. Bảng sau đây liệt kê các phản ứng bất lợi và các nghiên cứu thí nghiệm đã quan sát được từ các báo cáo tự phát và trong các thử nghiệm lâm sàng.
Rất phổ biến (≥1/10) | Phổ biến (≥1/100 đến < 1/10) | Không phổ biến (≥ 1/1.000 đến< 1/100) | Không ước tính được |
---|---|---|---|
Rối loạn máu và hệ bạch huyết | |||
Tăng bạch cầu eosin | Giảm bạch cầu Giảm bạch cầu trung tính | Giảm tiểu cầu | |
Rối loạn hệ miễn dịch | |||
Phản ứng dị ứng | |||
Rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng | |||
Giảm cân1 | Tăng nồng độ cholesterol2,3 Tăng nồng độ glucose4 Tăng nồng độ triglyceride2,5 Glucose niệu Tăng sự thèm ăn | Tiến triển hoặc trầm trọng thêm bệnh tiểu đường thỉnh thoảng kết hợp với nhiễm ceton acid hoặc hôn mê, trong đó có một số trường hợp gây tử vong Hạ thân nhiệt | |
Rối loạn hệ thần kinh trung ương | |||
Buồn ngủ | Chóng mặt Chứng ngồi/nằm không yên6 Parkinson6 Rối loạn vận động6 | Co giật mà trong nhiều trường hợp có tiền sử động kinh hoặc các yếu tố nguy cơ co giật đã được báo cáo Hội chứng an thần kinh ác tính Rối loạn trương lực (bao gồm cả vận nhãn) Rối loạn vận động thể muộn Hội chứng ngưng thuốc7 | |
Rối loạn tim | |||
Nhịp tim chậm Kéo dài khoảng QTC | Nhịp nhanh thất/rung thất Chết đột ngột | ||
Rối loạn mạch | |||
Hạ huyết áp tư thế | Huyết khối nghẽn mạch (bao gồm tắc mạch phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu) | ||
Rối loạn hệ tiêu hoá | |||
Tác dụng kháng cholinergic nhẹ, thoáng qua bao gồm táo bón và khô miệng | Viêm tụy | ||
Rối loạn gan - mật | |||
Tăng thoáng qua và không triệu chứng các enzym transaminase gan (ASAT, ALAT), đặc biệt là trong giai đoạn đầu điều trị | Viêm gan siêu vi (bao gồm tổn thương tế bào gan, gan ứ mật hoặc hỗn hợp) | ||
Rối loạn da và mô dưới da | |||
Phát ban | Phản ứng nhạy cảm với ánh sáng Rụng tóc | ||
Rối loạn cơ xương khớp và mô liên kết | |||
Globin cơ niệu kịch phát | |||
Rối loạn thận và tiết niệu | |||
Tiểu không tự chủ | |||
Rối loạn hệ thống sinh sản và ngực | |||
Chứng cương dương vật | |||
Rối loạn tại chỗ và toàn thân | |||
Chứng suy nhược Mệt mỏi Phù | |||
Khảo sát | |||
Tăng nồng độ prolactin trong huyết tương8 | Tăng creatine phosphokinase Tăng bilirubin toàn phần | Tăng alkaline phosphatase |
1 Tăng trọng đáng kể về mặt lâm sàng đã quan sát được qua tất cả các nhóm chỉ số trọng lượng cơ thể (BMI) cơ bản. Tăng cân ≥ 7% trọng lượng cơ thể ban đầu là rất phổ biến và ≥ 15% trọng lượng cơ thể ban đầu là phổ biến. Bệnh nhân tăng ≥ 25% trọng lượng cơ thể ban đầu khi dùng thuốc lâu dài là rất phổ biến.
2 Mức tăng trung bình chỉ số lipid lúc đói (cholesterol toàn phần, LDL cholesterol, và triglycerides) là lớn hơn ở những bệnh nhân không có bằng chứng về suy giảm chức năng điều tiết lipid ban đầu.
3 Nồng độ bình thường quan sát được lúc đói tại thời điểm ban đầu (<5,17 mmol/l) sau đó được tăng cao (≥ 6,2 mmol/I). Sự thay đổi nồng độ cholesterol toàn phần lúc đói từ giới hạn ở mức cơ bản (≥ 5,17 và <6,2 mmol/l) lên cao (≥ 6,2 mmol/I) là rất phổ biến.
4 Nồng độ bình thường quan sát được lúc đói tại thời điểm ban đầu (<5,56 mmol / 1) sau đó được tăng cao (≥ 7,0 mmol/l). Sự thay đổi nồng độ đường huyết lúc đói từ giới hạn ở mức cơ bản (≥ 5,56 và < 7,0 mmol/l) lên cao (≥ 7,0 mmol /1) là rất phổ biến.
5 Nồng độ bình thường quan sát được lúc đói tại thời điểm ban đầu (< 1,69 mmol / 1) sau đó được tăng cao (≥ 2,26 mmol/I). Sự thay đổi nồng độ các triglyceride lúc đói từ giới hạn ở mức cơ bản (≥ 1,69 và < 2,26 mmol/l) lên cao (≥ 2,26 mmol/l) là rất phổ biến.
6 Trong các thử nghiệm lâm sàng, tỷ lệ mắc Parkinson và rối loạn trương lực ở bệnh nhân được điều trị bằng olanzapin lớn hơn nhiều nhưng không có khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giả dược. Bệnh nhân được điều trị bằng olanzapin có tỷ lệ mắc Parkinson, chứng ngồi/nằm không yên và rối loạn trương lực thấp hơn so với khi dùng haloperidol ở liều đã được chuẩn độ. Trong trường hợp không có thông tin chi tiết về tiền sử hiện có của rối loạn vận động cá biệt cấp tính và hội chứng ngoại tháp thể muộn, không thể kết luận rằng ở thời điểm hiện tại olanzapin gây nên ít rối loạn vận động thể muộn và / hoặc các hội chứng ngoại tháp thể muộn khác.
7 Triệu chứng cấp tính như ra mồ hôi, mất ngủ, run, buồn nôn, lo lắng và nôn đã được báo cáo khi dừng olanzapin đột ngột.
8 Biểu hiện lâm sàng liên quan (ví dụ, vú to ở nam giới, đa tiết sữa, và làm nở ngực) rất hiếm. Trong hầu hết các bệnh nhân, mức độ của các biểu hiện trên trở về giới hạn bình thường mà không cần ngưng điều trị.
Điều trị lâu dài (ít nhất 48 tuần)
Tỷ lệ bệnh nhân có các thay đổi bất lợi, có ý nghĩa lâm sàng của những thay đổi về tăng cân, glucose, cholesterol toàn phần/LDL/HDL hoặc các triglycerides được tăng dần theo thời gian. Ở bệnh nhân trưởng thành đã hoàn thành 9 - 12 tháng điều trị, tốc độ tăng đường huyết trung bình trong máu chậm lại sau khoảng 4 - 6 tháng.
Thông tin bổ sung trên các đối tượng đặc biệt
Trong các thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân cao tuổi bị sa sút trí tuệ, điều trị bằng olanzapin có liên quan tới tỷ lệ tử vong các phản ứng bất lợi trên mạch máu não cao hơn so với giả dược. Các phản ứng bất lợi rất phổ biến liên quan với việc sử dụng olanzapin trong nhóm bệnh nhân này là dáng đi bất thường và té ngã. Viêm phổi, tăng nhiệt độ cơ thể, hôn mê, ban đỏ, ảo giác thị giác và tiểu không tự chủ đã được quan sát thường gặp.
Trong các thử nghiệm lâm sàng ở những bệnh nhân rối loạn tâm thần do thuốc (chất chủ vận dopamin) liên quan với bệnh Parkinson, sự xấu đi các triệu chứng Parkinson và ảo giác đã được báo cáo rất phổ biến và thường xuyên hơn so với giả dược.
Trong một thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân hưng cảm lưỡng cực, valproat điều trị kết hợp với olanzapin gây kết quả tỷ lệ giảm bạch cầu trung tính là 4,1%, một nhân tố góp phần tiềm năng có thể làm tăng nồng độ valproat trong huyết tương. Dùng đồng thời olanzapin với lithium hoặc valproat gây tăng (≥ 10%) run, khô miệng, tăng cảm giác ngon miệng và tăng cân. Rối loạn lời nói cũng đã được báo cáo phổ biến. Trong quá trình điều trị bằng olanzapin kết hợp với lithium hay divalproex, tăng ≥ 7% trọng lượng cơ thể ban đầu xảy ra ở 17,4% bệnh nhân trong khi điều trị cấp tính (lên đến 6 tuần). Olanzapin được điều trị lâu dài (lên đến 12 tháng) để phòng ngừa tái phát ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có liên quan với tăng ≥ 7% trọng lượng cơ thể ban đầu ở 39,9% bệnh nhân.
Trẻ em và thanh thiếu niên
Olanzapin không được chỉ định để điều trị cho bệnh nhân trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi. Mặc dù không có nghiên cứu lâm sàng được thiết kế để so sánh giữa các thanh thiếu niên với người lớn đã được thực hiện, dữ liệu từ những thử nghiệm trên thanh thiếu niên có thể so sánh được với những thử nghiệm dành cho người lớn.
Bảng sau đây tóm tắt các phản ứng bất lợi với tần số lớn hơn ở những bệnh nhân thanh thiếu niên (từ 13 - 17 năm) so với ở người lớn hoặc phản ứng bất lợi chỉ được xác định trong thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn ở những bệnh nhân thanh thiếu niên. Tăng cân đáng kể về mặt lâm sàng (≥7%) xảy ra thường xuyên hơn ở thanh thiếu niên so với người lớn với mức điều trị tương đương.
Mức độ tăng trọng lượng và tỷ lệ bệnh nhân thanh thiếu niên tăng cân đáng kể về mặt lâm sàng nhiều hơn khi điều trị lâu dài (ít nhất 24 tuần) so với điều trị ngắn hạn.
Trong mỗi nhóm tần số, phản ứng bất lợi được trình bày theo thứ tự giảm dần mức độ nghiêm trọng. Các thuật ngữ về tần số được định nghĩa như sau: Rất phổ biến (≥ 1/10), phổ biến (≥ 1/100 đến <1/10).
Rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng:
- Rất phổ biến: Tăng trọng lượng9, tăng nồng độ triglycerid9, tăng sự thèm ăn.
- Phổ biến: Tăng nồng độ cholesterol11.
Rối loạn hệ thần kinh:
- Rất phổ biến: An thần (bao gồm: Ngủ lịm, buồn ngủ, hôn mê).
Rối loạn tiêu hóa:
- Phổ biến: Khô miệng.
Rối loạn gan - mật:
- Rất phổ biến: Tăng transaminase gan (ALT/AST).
Khảo sát:
- Rất phổ biến: Giảm bilirubin toàn phần, tăng CGT, tăng nồng độ prolactin huyết tương12.
9 Tăng cân ≥ 7% trọng lượng cơ thể ban đầu (kg) là rất phổ biến và ≥ 15% trọng lượng cơ thể ban đầu là phổ biến. Khi điều trị lâu dài (ít nhất là 24 tuần), khoảng một nửa số bệnh nhân thanh thiếu niên tăng cân ≥ 15% và gần như một phần ba số bệnh nhân tăng ≥ 25% trọng lượng cơ thể ban đầu của họ. Trong số những bệnh nhân thanh thiếu niên, sự tăng cân trung bình là lớn nhất ở những bệnh nhân bị thừa cân hoặc béo phì ở thời điểm ban đầu.
10 Nồng độ bình thường quan sát được lúc đói tại thời điểm ban đầu (1,016 mmol/l) sau đó được tăng cao (≥ 1,467 mmol/l). Sự thay đổi nồng độ các triglycerid lúc đói từ giới hạn ở mức cơ bản (≥ 1,016 và < 1,467 mmol/l) lên cao (≥ 1,467 mmol/l) là rất phổ biến.
11 Những thay đổi trong nồng độ bình thường lúc đói của cholesterol tổng thể tại thời điểm ban đầu (< 4,39 mmol/l) sau đó được tăng cao (≥ 5,17 mmol/l) đã được quan sát thường gặp. Sự thay đổi nồng độ các triglycerid lúc đói từ giới hạn ở mức cơ bản (≥ 4,39 và < 5,17 mmol/l) lên cao (≥ 5,17mmol/l) là rất phổ biến.
Tăng nồng độ prolactin huyết tương đã được báo cáo ở 47,4% bệnh nhân thanh thiếu niên.