Pyridoxal Phosphate
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Pyridoxal phosphate là gì?
Dạng hoạt động sinh học của vitamin B6, pyridoxal phosphate (PLP), hoạt động như coenzyme trong khoảng 160 enzym khác nhau, chủ yếu tham gia vào chuyển hóa acid amin, carbohydrate và lipid và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp hoặc dị hóa của một số chất dẫn truyền thần kinh.
Ngoài ra, PLP hoạt động như phân tử chống oxy hóa bằng cách phá huỷ các dạng oxy hoạt động (ROS) ( Ehrenshaft và cộng sự, 1999 ) và chống lại sự hình thành các sản phẩm cuối glycation tiên tiến (AGEs), các hợp chất gây độc gen liên quan đến tuổi già và bệnh đái tháo đường. Động vật có vú, khác với vi sinh vật, không có khả năng tổng hợp PLP nhưng chúng tái chế nó thông qua một con đường cứu vãn từ các vitamin B6 như pyridoxal, pyridoxamine và pyridoxine có trong thực phẩm.
Trong tế bào chất, pyridoxamine và pyridoxine được chuyển đổi thành các vitamin 5'-phosphoryl hóa bởi pyridoxal kinase, trong khi pyridoxine 5'-phosphate oxidase phụ thuộc flavin mononucleotide chuyển pyridoxine 5′‐phosphate và pyridoxamine-5-Phosphate thành PLP.
Sự thiếu hụt vitamin B6 có liên quan đến một số bệnh bao gồm tự kỷ, tâm thần phân liệt, Alzheimer, Parkinson, động kinh, hội chứng Down, đái tháo đường và ung thư.

Điều chế sản xuất pyridoxal phosphate
PLP được điều chế thông thường bằng cách phosphoryl hóa pyridoxal hoặc các dẫn xuất của nó, chẳng hạn như Schitf-base của nó hoặc bằng quá trình oxy hóa pyridoxine-S-phosphate hoặc pyridoxamine-S-phosphate.
Cơ chế hoạt động
Các enzym PLP xúc tác nhiều kiểu phản ứng khác nhau trên cơ chất là amin và acid amin. Bước đầu tiên và phổ biến trong tất cả các phản ứng xúc tác pyridoxal phosphat là hình thành chất trung gian aldimin bên ngoài với cơ chất.
Điều này xảy ra thông qua một loạt các bước trong đó nhóm amin chưa được proton hóa của chất nền phản ứng với Schiff-base đã được proton hóa, hình thành giữa chuỗi bên lysine ở vị trí hoạt động và nhóm aldehyde của PLP, tiếp theo là chuyển proton và tách thành Schiff-base giữa chất nền và PLP, chất trung gian aldimine bên ngoài. Tất cả các enzym phụ thuộc PLP đều có điểm chung là chất trung gian aldimine bên ngoài và chính từ chất trung gian này mà các loại phản ứng khác nhau được xúc tác bởi PLP sẽ khác nhau.

Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Levomenthol là gì?
Menthol là một trong những hợp chất tecpen được con người biết đến từ rất lâu đời. Ở Nhật Bản đã sử dụng nó vào khoảng đầu thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên, thành phần này đã được sử dụng trong các chế phẩm thảo dược truyền thống.
Thành phần này được phân lập lần đầu tiên ở Đức vào cuối thế kỷ XVIII. Vì lợi ích và ứng dụng nên thành phần này là một trong những hợp chất hữu cơ được phân lập và tổng hợp rộng rãi nhất.
Hằng năm, nhu cầu tiêu thụ lên tới trên 3.000 tấn tinh dầu bạc hà để phục vụ cho mục đích thương mại.

Thành phần menthol được sử dụng trong vô số sản phẩm, từ sau cạo râu đến kem dưỡng da làm mát cơ... Thành phần này còn được đưa vào sử dụng như chất tạo hương trong bánh kẹo các sản phẩm chăm sóc răng miệng và kẹo cao su.
Trong cây bạc hà và những loại thực vật thuộc họ bạc hà khác, Menthol là một hoạt chất được tìm thấy rất nhiều. Người ta cô đặc tinh dầu bạc hà để thu lại thành phần này. Menthol tự nhiên có mùi the mát đặc trưng của bạc hà. Hoạt chất thường xuất hiện ở dạng bột hoặc dạng tinh thể rắn, dễ bay hơi ở nhiệt độ phòng nhưng không tan trong nước.
Người ta thường sử dụng Menthol khi chiết xuất một số loại dung môi như: Parafin, dầu... để hòa tan. Đây là một cách bảo quản Menthol giảm tình trạng bay hơi khi phòng chứa không có khả năng điều chỉnh nhiệt độ.
Tùy vào mục đích sử dụng khác nhau, Menthol cũng có rất nhiều các đặc tính. Hoạt chất này có một số đặc tính như: Làm thông thoáng đường hô hấp, hỗ trợ giảm đau, kháng khuẩn, tạo mùi thơm giúp thư giãn.
Điều chế sản xuất
Người ta chiết xuất tinh dầu bạc hà từ lá bạc hà bằng công nghệ chưng cất hơi nước. Hai chất Menthol và menthone là thành phần chính trong tinh dầu bạc hà. Người ta có thể tìm thấy tinh dầu bạc hà trong nhiều thứ từ thuốc ho đến thuốc sâu. Thành phần này là một chất gây mê tự nhiên.
Menthol là một thành phần có nhiều công dụng nếu bạn biết cách sử dụng nó. Menthol tạo cho chúng ta thấy thư giãn, làm mát và giảm đau.
Có thể chưng cất tinh dầu bạc hà bằng phương pháp thủ công:
Vì vậy cần chuẩn bị nguyên liệu và vật dụng để tiến hành chưng cất.
Nguyên liệu:
- Cần chuẩn bị một lượng lá bạc hà tùy theo nhu cầu và chuẩn bị loại rượu từ 45-60 độ. Dụng cụ để làm là lọ thủy tinh cần chọn loại tối màu và có nắp kín, dụng cụ để lọc.
- Lấy lá bạc hà tươi và chọn những lá đẹp nhất. Để lá đạt được độ tinh dầu tốt nhất thì nên thu hái vào sáng sớm. Chọn lá ngon rửa sạch cắt nhỏ.
- Xếp lá bạc hà đã cắt nhỏ vào lọ đổ ngập rượu.
- Nhấn chìm lá nổi cất vào một nơi thoáng mát một vài ngày, khi lá đã chìm hết xuống dưới.
- Đậy nắp và để trong 4-8 tuần để nơi không có ánh sáng trực tiếp vì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tinh dầu. Trong thời gian ủ chúng ta nên lắc đều lọ để hòa tan nhanh hơn và thu được nhiều dầu hơn.
- Bước cuối cùng là bạn lọc bỏ phần bã thu được tinh dầu và cất đi sử dụng dần. Tuy nhiên, nhược điểm của cách này là dễ bị hư. Vì vậy bạn phải bảo quản thật kỹ.
- Ngoài ra còn có cách chưng cất tinh dầu bằng dụng cụ chuyên biệt: Bạn cũng cần dùng lọ chiết tinh dầu bằng thủy tinh tối màu. Dùng nồi chưng cất tinh dầu tùy theo nhu cầu.
Các bước chưng cất tinh dầu:
- Cũng như cách chưng cất dầu thủ công phải lựa chọn những lá bạc hà tươi xanh và cắt nhỏ.
- Cho vào nồi đổ nước vào chưng cất, sau khi thu được hỗn hợp tinh dầu và nước sau đó phải lọc để lấy tinh dầu. Bảo quản ở lọ thủy tinh tối màu.
Cơ chế hoạt động
Menthol chủ yếu kích hoạt các thụ thể TRPM8 nhạy cảm lạnh trong da. Menthol, sau khi bôi tại chỗ, gây cảm giác mát mẻ do kích thích thụ thể 'lạnh' bằng cách ức chế dòng Ca ++ của màng tế bào thần kinh. Nó cũng có thể mang lại đặc tính giảm đau thông qua chủ nghĩa thụ thể kappa-opioid.
Eucalyptus Oil là gì?
Eucalyptus là loại cây chúng ta thường gọi là cây bạch đàn (hay khuynh diệp). Từ lâu, Eucalyptus được biết đến có tác dụng chữa nhiều loại bệnh, trong đó lá bạch đàn có thể trị nhiễm trùng, sốt, đau bụng, giảm ho, bệnh đường hô hấp, hen suyễn, lao phổi, viêm xương khớp, đau khớp, mụn trứng cá cùng rất nhiều các bệnh lý khác, thậm chí cả ung thư.
Eucalyptus oil chính là loại dầu được chưng cất từ lá cây khuynh diệp. Thành phần của tinh dầu khuynh diệp là cineole (hay còn gọi là eucalyptol). Eucalyptus oil qua nhiều nghiên cứu cho thấy có tác dụng vô cùng hiệu quả trong giảm sưng, giảm đau qua cơ chế điều chỉnh với đáp ứng miễn dịch. Tinh dầu từ cây khuynh diệp còn có tác dụng kháng khuẩn, ức chế ho.

Eucalyptus oil pha loãng có thể dùng uống giúp hỗ trợ trị các bệnh về đường hô hấp (giảm ho, trị viêm phế quản, đau xoang và viêm, hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD, nhiễm trùng hô hấp…). Bên cạnh đó, Eucalyptus oil còn dùng như thuốc long đờm trong điều trị ho, sát trùng, hạ sốt và còn là thành phần của một số dung dịch xông hơi. Ngoài ra, Eucalyptus oil cũng có tác dụng điều trị vết thương, bỏng, loét và ung thư.
Nhiều người còn dùng tinh dầu khuynh diệp trong điều trị đau khớp, nhiễm herpes cơ quan sinh dục, nghẹt mũi, ngừa côn trùng cắn. Trong nha khoa, tinh dầu khuynh diệp là thành phần trong một số sản phẩm nha khoa.
Điều chế sản xuất
Lá khuynh diệp sau khi được sấy khô, đem nghiền nát và chưng cất để giải phóng tinh dầu. Sau khi dầu đã được chiết xuất tinh dầu, người dùng phải pha loãng tinh dầu trước khi sử dụng.
Dầu Inca Inchi là gì?

Inca Inchi có tên khoa học là Plukenetia volubilis hay còn được gọi bằng nhiều tên khác như Sachi Inchi, Inca nut. Ở Việt Nam, loại cây này được biết với tên gọi là đậu núi. Quả Inca Inchi có hình dáng giống như ngôi sao, được trồng ở Peru, trong khu rừng nhiệt đới Amazon, như vùng Ashaninka (Peru).
Cây Inca Inchi được ví như “vàng xanh” vì có nhiều công dụng tuyệt vời. Cả thân, rễ, lá, quả, hạt của cây Inca Inchi đều có thể được sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau. Đặc biệt, hạt từ quả Inca Inchi được mệnh danh là vua của các loại hạt. Dầu ăn chiết xuất từ loại quả này được đánh giá còn tốt hơn cả dầu Oliu hay dầu cá hồi gấp nhiều lần.
Điều chế sản xuất
Dầu Inca Inchi được ép lạnh nguyên chất từ hạt Inca Inchi có nguồn gốc từ rừng Amazon. Hiện nay, cây Inca Inchi có thể được trồng tại Việt Nam bằng phương pháp hữu cơ nên đã giữ lại 100% các chất tự nhiên gồm 45% Omega 3, 35% Omega 6, 10% Omega 9 và hàm lượng Vitamin E 230mg/100g.
Cơ chế hoạt động
Dầu từ quả Inca Inchi cung cấp hàm lượng axit béo thiết yếu cho cơ thể rất lớn gồm omega 3 và omega 6. Không có omega 3 hoặc omega 6, cơ thể bị thiếu hụt chất với biểu hiện là da khô, bong vảy, viêm da. thậm chí rụng tóc.
Trong dầu Inca inchi chứa Vitamin E dao động từ 176 đến 226mg mỗi 100 gram dầu. Một muỗng canh dầu (khoảng 14g) cung cấp tới 30mg Vitamin E, gấp đôi nhu cầu dinh dưỡng đề nghị. Hầu hết Vitamin E ở dạng gamma tocopherol như một chất chống oxy hóa mạnh mẽ.
Ngoài ra, có một lượng nhỏ Vitamin A trong dầu hạt Inca inchi, khoảng 2,5 miligam trên 100g dầu.
Caprylic/Capric Triglyceride là gì?
Caprylic/Caprylic triglyceride là một thành phần được sử dụng phổ biến trong mỹ phẩm và xà phòng. Nó là sản phẩm từ sự kết hợp dầu dừa và glycerin.
Có thể thay thế tự nhiên cho các chất làm mềm và chất tăng cường kết cấu khác nên Caprylic/Caprylic triglyceride thường được nhà sản xuất dùng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm sạch.

Caprylic/Capric Triglycerides cũng có tác dụng của một chất chống oxy hóa nên được ứng dụng làm chất bảo quản trong một số sản phẩm nhằm giúp kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm. Do đó, từ lâu chất này đã trở thành chọn lựa hoàn hảo để thay thế cho những chất bảo quản khác.
Trừ những người đã được xác định dị ứng với Caprylic/Caprylic triglyceride, còn lại thì thành phần này phù hợp với tất cả mọi người.
Điều chế sản xuất Caprylic/Capric Triglyceride
Để chiết xuất Caprylic/Caprylic triglyceride, người ta thực hiện qua hai bước. Bước thứ nhất dùng phương pháp xà phòng hóa (tức là dùng xà phòng) để tách nhóm glycerol khỏi các axit béo. Nhóm glycerol này tiếp tục phản ứng lại với các axit béo khác để tạo ra một hợp chất mới mà chúng ta gọi là xà phòng.
Ngoài ra, còn có thể tách glycerol khỏi các axit béo thông qua quá trình thủy phân hơi nước: Sử dụng nhiệt độ và áp suất mạnh để phá vỡ phân tử triglyceride.

Bước thứ hai là trải qua quá trình este hóa để hình thành được dầu tinh khiết chứa caprylic từ xà phòng, phải để tách hẳn glycerol ra khỏi toàn bộ axit béo như axit lauric (49%), axit myristic (18%), axit palmitic (8%), axit caprylic (8%), axit capric ( 7%), axit oleic (6%), axit linoleic (2%) và axit stearic (2%).
Tóm lại, quá trình thu Caprylic (Capric Triglyceride) chính là việc tách nhập nhiều lần axit béo với nhóm glycerol rồi cuối cùng trải qua quá trình este hóa.
Alpha-Linolenic Acid là gì?
Alpha-linolenic acid là một axit béo omega-3 cần cho sự tăng trưởng, phát triển của chúng ta. Vì vậy Alpha-linolenic acid được gọi là một axit thiết yếu. Alpha-linolenic acid được tìm thấy trong thực vật, thịt đỏ và các sản phẩm từ sữa.
Alpha-linolenic acid có tác dụng ngăn ngừa và điều trị nhiều chứng bệnh của con người từ tim mạch, khớp, tiểu đường, phổi tắc nghẽn, ung thư… Mặt khác Alpha-linolenic acid có thể làm tăng nguy cơ tuyến tiền liệt ở một số nam giới.
Chúng ta biết các axit béo omega-3 khác như DHA và EPA có ở dầu cá, nhưng không phải chúng đều hoạt động cùng một cách trong cơ thể. Vì vậy axit alpha-linolenic có thể có lợi ích không giống DHA và EPA.
Điều chế sản xuất Alpha-Linolenic Acid
Alpha-Linolenic Acid (ALA) là chất béo omega-3 thiết yếu với những lợi ích sức khỏe. Phân tử này được tìm thấy tự nhiên trong các loại thực vật như hạt lanh và cải dầu, nhưng hiện đang hạn chế sản xuất. Tiềm năng sản xuất ALA bền vững bằng cách sử dụng nấm men có dầu Yarrowia lipolytica. Thông qua việc sử dụng desaturase Δ12-15 được xác định gần đây (Rk Δ12-15), có thể cho phép sản xuất Y. lipolytica.
Khi kết hợp với một chủng sản xuất quá nhiều lipid đã được thiết kế trước đây với khả năng sẵn có tiền chất cao, việc cải tiến hơn nữa trong quá trình sản xuất ALA đã được thực hiện. Việc nuôi cấy chủng này ở nhiệt độ thấp hơn làm tăng đáng kể hàm lượng ALA, với các tế bào được lên men ở 20 độ C tích lũy gần 30% ALA của tổng số lipid trong tế bào này.
Quá trình lên men ở nhiệt độ thấp thể hiện hiệu giá ALA được cải thiện lên đến 3,2 lần so với điều kiện tăng trưởng tiêu chuẩn.
Cơ chế hoạt động của Alpha-Linolenic Acid
Alpha-linolenic acid đã được chứng minh giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch vì hoạt chất này giúp duy trì nhịp tim. Alpha-linolenic acid có lợi cho hệ thống tim mạch, nguy cơ mắc bệnh tim mạch sẽ giảm. Alpha-linolenic acid cũng được nghiên cứu chỉ ra rằng có thể làm tan cục máu đông. Nghiên cứu cũng chỉ ra Alpha-linolenic acid không cho thấy có ảnh hưởng đáng kể đến cholesterol.
Dichlorobenzyl alcohol là gì?
- Danh pháp IUPAC: (2,4-dichlorophenyl)methanol.
- PubChem CID: 15684.
- Tên gọi khác: Dybenal, 1,4-Dichlorobenzyl alcohol, Rapidosept, Myacide SP.
- Công thức hóa học Dichlorobenzyl alcohol là C7H6Cl2O. Trọng lượng phân tử là 177.02.
- Dichlorobenzyl alcohol là một thành viên của nhóm Benzyl alcohols, trong đó các Hydro ở vị trí 2 và 4 được thay thế bằng Clo.

Dichlorobenzyl alcohol là một chất khử trùng nhẹ phổ rộng đối với vi khuẩn và vi rút liên quan đến nhiễm trùng miệng và cổ họng. Dichlorobenzyl alcohol được coi là một thành phần hoạt tính được tìm thấy trong một số sản phẩm OTC (Over-the-Counter: Thuốc không cần kê đơn) trên thị trường, bởi vì Bộ Y tế Canada đã phân loại tác nhân này như một hóa chất điều trị giải phẫu (ATC: Anatomical therapeutic chemical).
Mặt khác, Dichlorobenzyl alcohol được FDA (Food and Drug Administration – Cục quản lý thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) phân loại vào thành phần không hoạt động đối với các sản phẩm thuốc đã được phê duyệt.
Điều chế sản xuất Dichlorobenzyl alcohol
2,4-dichlorobenzyl alcohol thu được có độ tinh khiết cao và cho năng suất cao, bằng cách cho 2,4-dichlobenzyl cloride trải qua hai giai đoạn, phản ứng với muối tan trong nước của một axit hữu cơ, với sự có mặt của chất xúc tác chuyển pha để tạo ra 2,4-dichlobenzyl ester của axit hữu cơ sau đó bị thủy phân với một bazơ mạnh.
-
Giai đoạn đầu tiên: Gia nhiệt 2,4-dichlorobenzyl chloride và dung dịch nước của muối hòa tan trong nước của một axit hữu cơ, cụ thể là Natri axetat (được chọn từ nhóm bao gồm natri axetat, kali axetat và amoni axetat), được hồi lưu với sự có mặt của chất xúc tác chuyển pha (một muối tetrabutylammonium được chọn trong nhóm bao gồm muối alkylamoni, ankylamoni halogenua chuỗi dài, hợp chất arylalkylamoni và alkylphosphonium halogenua), tạo thành este 2,4-dichlorobenzyl của axit hữu cơ.
-
Giai đoạn thứ hai: Đun nóng este 2,4-dichlorobenzyl với một bazơ mạnh (NaOH - sodium hydroxide) để thủy phân este tạo ra 2,4-dichlorobenzyl alcohol.

Cơ chế hoạt động
Việc sử dụng Dichlorobenzyl alcohol có liên quan đến đặc tính kháng khuẩn, kháng virus và gây tê cục bộ. Tác dụng gây tê cục bộ của Dichlorobenzyl alcohol được cho là do giảm sự phong tỏa kênh natri. Cơ chế tác dụng sát trùng của Dichlorobenzyl alcohol chưa được hiểu đầy đủ nhưng nó được cho là có liên quan đến sự biến tính của các protein bên ngoài và sự sắp xếp lại của bậc ba cấu trúc các protein.
Dichlorobenzyl alcohol được giải phóng gần như ngay lập tức và đạt nồng độ đỉnh sau 3-4 phút. 50% nồng độ liều dùng tập trung trong nước bọt sau 120 phút. Dichlorobenzyl alcohol chuyển hóa qua gan tạo thành hippuric acid.
Acid chlorogenic là gì?
Acid chlorogenic là một sản phẩm tự nhiên phenolic, thành phần này được phân lập từ trái và lá của cây dicotyledonous, hạt cà phê, ulmoides eucommia, cây kim ngân hoa. Cấu trúc của thành phần axit chlorogenic là este của axit caffeic với nhóm axit quinic 3-hydroxyl, là một hợp chất phenolic chính trong cà phê xanh. Từ lâu hợp chất này được gọi là chất chống oxy hóa, làm chậm quá trình giải phóng glucose vào máu sau khi ăn.

Chlorogenic acid là một trong những nguyên nhân gây ra vị đắng trong cà phê, nó còn nhiều điều liên quan đến sức khỏe của chúng ta.
Trong quá trình rang cà phê, do thay đổi nhiệt hình thành lactones chlorogenic góp phần nâng cao vị đắng. Nếu hàm lượng chlorogenic acid trong cà phê xanh cao tạo nên mùi không mong muốn của cà phê, vì trong quá trình rang các chất tạo thành oxy hóa.
Điều chế sản xuất
Có một số nghiên cứu tại Việt Nam về tách chiết acid chlorogenic từ cà phê nhân (cà phê xanh) tuy nhiên còn nhỏ lẻ chưa được đưa vào sản xuất. Đây là hướng nghiên cứu mới về thu nhận acid chlorogenic dùng sản xuất thực phẩm chức năng từ cà phê nhân. Ở Việt Nam có thế mạnh về nguyên liệu cà phê. Nhu cầu sử dụng thực phẩm chức năng trong phòng tránh nguy cơ béo phì cũng khá lớn. Vì vậy nhu cầu phát triển sản phẩm đặc biệt này là cấp bách. Vì vậy, đề tài xây dựng quy trình công nghệ, mô hình thiết bị để sản xuất acid chlorogenic từ hạt cà phê xanh bằng công nghệ lên men được quan tâm. Từ đó đưa ứng dụng này sản xuất thực phẩm chức năng, đẩy mạnh kinh tế và đa dạng hóa sản phẩm từ cà phê, nguồn nguyên liệu phong phú của Việt Nam.
Quy trình công nghệ tách chiết, thu nhận acid chlorogenic từ hạt cà phê xanh đã được xây dựng với độ tinh sạch 90%, hiệu suất đạt 1,2%. Mô hình công nghệ, thiết bị sản xuất acid chlorogenic phòng thí nghiệm quy mô 5kg nguyên liệu/mẻ và quy mô 300kg nguyên liệu/mẻ đã được xây dựng.
Cơ chế hoạt động
Acid chlorogenic là sản phẩm của acid caffeic, hay chính xác hơn là este của nó, cũng chứa đồng phân lập thể của acid quinic. Thành phần này được chiết xuất từ cà phê xanh bằng cách sử dụng ethanol. Acid chlorogenic cũng có thể được tổng hợp từ cinnamic và acid quinic.
Guar hydroxypropyltrimonium chloride là gì?
Guar hydroxypropyltrimonium chloride có nguồn gốc từ đậu guar là một loại bột mịn màu trắng hoặc vàng. Thành phần này là một loại galactomannan và là một polysaccharide. Đậu guar có nguồn gốc từ cây guar, một loại cây họ đậu nó có ở nhiều nơi trên thế giới như: Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pakistan, Úc và cả ở châu Phi. Đậu guar có nội nhũ lớn, có vai trò dự trữ thức ăn cho cây phát triển. Chính trong phần nội nhũ có chứa gôm galactomannan. Thành phần này làm nguyên liệu tạo thành một chất gel có độ nhớt gọi là gum guar.
Thành phần này là một hợp chất hữu cơ, một dẫn xuất amoni bậc bốn tan trong nước của guar gum. Guar có thể cung cấp một số đặc tính điều hòa cho dầu gội và một số sản phẩm chăm sóc tóc. Trong một số nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ điện tích cation, nồng độ guar ở dung dịch và thời gian xử lý ở tóc được tẩy trắng của người châu Âu. Áp dụng thành công phương pháp thử nghiệm cơ học được xác định hiệu quả của guitar cation có thể cải thiện được tính suôn mượt và dễ chải của tóc. Hoạt chất có thể phù hợp trong dầu gội trên cả tóc đã tẩy trắng và tóc còn nguyên. Chất này hoạt động theo nguyên lý như là chất làm đặc, điều hòa làm tóc trở nên bóng mượt và mềm mại.

Ngoài những ưu điểm trên, hoạt chất còn có tác dụng giúp giữ ẩm tự nhiên cho da, làm tăng độ ổn định và độ nhớt của sản phẩm. Nó có thể dễ dàng tan trong nước và phân tán rất nhanh. Nó tương thích với hệ ion lưỡng tính và hệ ion âm. Trong các sản phẩm chăm sóc da và tóc đều được ứng dụng thành phần này.
Ngoài ra, Guar Hydroxypropyltrimonium Chloride (N-Hance) còn gọi là N-Hance. Hoạt chất có mùi đặc trưng và có thể dễ dàng tan trong nước tạo thành một loại keo sệt có màu vàng nhạt. Có thể sử dụng Acid citric để trung hòa nó vì N-Hance có độ pH > 9.
Điều chế sản xuất Guar Hydroxypropyltrimonium Chloride
Người ta sản xuất Guar hydroxypropyltrimonium clorua bắt đầu bằng cách xay đậu guar sản phẩm thu được là kẹo cao su tự nhiên. Từ kẹo cao su này người ta sẽ làm cho tinh khiết, lọc để phản ứng với epoxit. Việc chuyển đổi guar bằng một phương pháp liên quan đến 3-cloro-2 hystroxyproply trimethyl amoni clorua.
Cơ chế hoạt động của Guar Hydroxypropyltrimonium Chloride
Guar Hydroxypropyltrimonium Chloride là một dẫn xuất dễ dàng hòa tan trong nước của gôm guar tự nhiên. Đặc tính hữu ích của chất này là có khả năng dưỡng tóc. Cùng với đó là những sản phẩm có công dụng chăm sóc tóc sau khi gội như dầu xả.
Gellan Gum là gì?
Gellan gum, chỉ số quốc tế là E418, là một chất phụ gia thực phẩm được sử dụng để thay thế cho Gelatin và thạch Agar, hiện được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm chế biến bao gồm mứt, kẹo, thịt và sữa thực vật.

Chất phụ gia thực phẩm này thường được sử dụng để kết dính, ổn định hoặc tạo kết cấu cho thực phẩm đã qua chế biến, tương tự như các chất tạo gel khác như Guar gum, Carrageenan, thạch Agar và Xanthan gum.
Gellan gum là một Polysaccharide anion hòa tan trong nước được tạo ra bởi vi khuẩn Sphingomonas elodea. Vi khuẩn sản sinh Gellan được phát hiện và phân lập vào năm 1978 từ mô cây hoa loa kèn trong ao nước tự nhiên ở Pennsylvania.
Gellan gum có thể chịu được nhiệt 120 độ C, được xác định là một chất tạo gel đặc biệt hữu ích trong việc nuôi cấy vi sinh vật ưa nhiệt. Chỉ cần khoảng một nửa lượng Gellan gum dưới dạng thạch có thể đạt được độ bền gel tương đương, mặc dù kết cấu và chất lượng chính xác phụ thuộc vào nồng độ của các điện tích dương hóa trị hai. Gellan gum cũng được sử dụng làm chất tạo gel trong nuôi cấy tế bào thực vật trên đĩa Petri, vì nó tạo ra một chất gel rất trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích tế bào và mô bằng kính hiển vi quang học.
Là một chất phụ gia thực phẩm, Gellan gum lần đầu tiên được phép sử dụng trong thực phẩm ở Nhật Bản năm 1988, sau đó đã được nhiều quốc gia khác như Mỹ, Canada, Trung Quốc, Hàn Quốc và Liên minh Châu Âu chấp thuận sử dụng trong thực phẩm, phi thực phẩm, mỹ phẩm và dược phẩm...
Gellan gum được sử dụng trong các loại sữa có nguồn gốc thực vật để giữ cho Protein thực vật lơ lửng trong sữa. Thành phần này cũng đã trở nên phổ biến trong ẩm thực cao cấp, đặc biệt là trong ẩm thực phân tử để tạo ra các loại gel có hương vị. Đầu bếp người Anh Heston Blumenthal và đầu bếp người Mỹ Wylie Dufresne được xem là những đầu bếp đầu tiên kết hợp Gellan gum vào ẩm thực tại nhà hàng cao cấp.
Điều chế sản xuất
Gellan gum là chất phát triển tự nhiên trên hoa súng.
Trong quy trình sản xuất nhân tạo, Gellan gum được sản xuất bằng cách lên men đường với trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas elodea, bao gồm một đơn vị lặp lại của các Monome, Tetrasaccharide, là hai gốc của D-glucose và một trong mỗi gốc của axit D-glucuronic và L-rhamnose.
Cơ chế hoạt động
Gellan gum khi được ngậm nước thích hợp, có thể được sử dụng trong các công thức làm kem và sữa chua, hoạt động như một loại gel lỏng sau khi khuấy.
Glucosylrutin là gì?
Glucosylrutin là bioflavonoid hòa tan trong nước, ổn định và không có mùi, được sản xuất bằng công nghệ enzym độc quyền. Nó có thể được sử dụng trong nhiều loại mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc cá nhân. Khả dụng sinh học tăng lên là do khả năng hòa tan trong nước tăng lên, so với rutin có độ hòa tan kém.
Glucosylrutin là chất chống oxy hóa có tác dụng chống oxy hóa rất tốt, hấp thụ tia cực tím và quét gốc tự do. Nó là một thành phần lý tưởng để ngăn ngừa ảnh hưởng của da và làm chậm quá trình lão hóa.
Tên hóa học của Glucosylrutin: 4 (G) -aD-glucopyranosylrutin. Công thức hóa học: C33H40O21. Trọng lượng phân tử: 772,66.
Glucosylrutin có công thức hóa học C33H40O21
Điều chế sản xuất Glucosylrutin
Rutin (còn được gọi là rutinoside, vitamin P, v.v.) là một flavonol glycoside tồn tại rộng rãi trong thực vật (hoa và chồi cây Sophora japonica, Fagopyrum exculsum, Phaseolus angularis, v.v.). Nó có đặc tính chống oxy hóa tuyệt vời và ổn định sắc tố. Tuy nhiên, do khả năng hòa tan kém nên việc sử dụng nó bị hạn chế.
Glucosylrutin còn được gọi là alpha-glucosyl-rutin, là một hợp chất được điều chế từ rutin thông qua công nghệ sinh tổng hợp độc đáo.
Cơ chế hoạt động
Glucosylrutin củng cố và bảo vệ mức độ thiol nội bào và tiềm năng màng ty thể của tế bào sừng sơ cấp và nguyên bào sợi chống lại sự suy giảm do stress oxy hóa. Glucosylrutin giảm sự suy giảm do stress oxy hóa gây ra trong tốc độ tổng hợp, bảo vệ và sửa chữa DNA.
Glucosylrutin làm giảm mức độ phosphoryl hóa tyrosine và kích hoạt ERK1/2 trong các tế bào da chính bị thách thức bởi các tác nhân gây oxy hóa (H2O2, UVA).
Glucosylrutin bảo vệ các tế bào da chính của con người chống lại cả sự giảm tổng hợp DNA và hyaluronan- do tia UV gây ra cũng như chống lại sự hình thành hydroperoxide nội bào do tia UV gây ra.
Glucosylrutin là một flavonoid tự nhiên được biến đổi để trở nên dễ hòa tan trong nước. Nó cho thấy các đặc tính chống oxy hóa và hấp thụ tia cực tím mạnh mẽ và hoạt động loại bỏ các gốc rễ đặc biệt. Alpha Glucosylrutin có thể giúp bảo vệ lớp biểu bì và hạ bì chống lại các tổn thương do tia cực tím gây ra.
Collagen là gì?
Collagen là một loại protein cứng, dạng sợi và không hòa tan. Chúng rất dồi dào khi chiếm tới 1/3 lượng protein của cơ thể. Hầu hết các phân tử của collagen được liên kết với nhau nhằm tạo thành các sợi mỏng và dài. Collagen được xem như một loại keo dán, giữ cho tất cả các mô tế bào dính chặt vào nhau.
Collagen mang lại rất nhiều lợi ích cho cơ thể con người, không chỉ giúp da khỏe mạnh và đàn hồi mà còn giúp hỗ trợ xương, dây chằng, cơ bắp, sụn cũng như các cơ quan nội tạng. Nhiều chế phẩm collagen còn được sử dụng trong điều trị đau khớp kết hợp với nhiều loại viêm khớp và phẫu thuật; điều trị đau lưng, đau cổ và đau sau chấn thương.

Có hai loại collagen:
-
Collagen nội sinh: Do cơ thể chúng ta tự tổng hợp, loại collagen này đảm nhận một số chức năng quan trọng. Vì thế, việc suy giảm collagen nội sinh sẽ có liên quan tới một số vấn đề về sức khỏe.
-
Collagen ngoại sinh: Đây là loại collagen tổng hợp từ một nguồn bên ngoài cơ thể.
Thành phần của collagen có ít nhất 16 loại và trong đó có 4 loại chính, bao gồm:
-
Loại I: Được cấu tạo từ các sợi dày đặc và chiếm 90% lượng collagen trong cơ thể. Thành phần này góp phần tạo nên cấu trúc của gân, sụn sợi, mô liên kết, răng, cấu trúc da và xương.
-
Loại II: Được tạo ra từ các sợi lỏng lẻo hơn và có trong sụn đàn hồi và đệm khớp.
-
Loại III: Loại này có tác dụng hỗ trợ cấu trúc của khối cơ bắp, động mạch,...
-
Loại IV: Thành phần này có trong da và nó có tác dụng hỗ trợ quá trình thanh lọc.
Điều chế sản xuất collagen
Các sản phẩm chức năng bổ sung collagen trên thị trường hiện nay phần lớn đều có nguồn gốc từ động vật, đặc biệt là lợn, bò và cá. Thông thường, các thực phẩm bổ sung chứa collagen loại I, II, III hoặc hỗn hợp cả ba loại. Collagen được cung cấp cho cơ thể chủ yếu dưới các dạng sau:
-
Collagen thủy phân: Còn được gọi là collagen hydrolyzate hoặc collagen peptide, được chia thành các đoạn protein nhỏ hơn gọi là axit amin;
-
Gelatin: Collagen trong gelatin chỉ bị phân hủy một phần thành các axit amin.
-
Nguyên sơ: Ở dạng thô - protein collagen vẫn còn nguyên.
Trong số ba dạng nêu trên, collagen thủy phân được cơ thể hấp thụ hiệu quả nhất. Nghĩa là, collagen dưới bất kỳ dạng nào được đưa vào cơ thể đều được thủy phân thành các axit amin thì cơ thể mới có thể hấp thụ dễ dàng để xây dựng collagen và các dạng protein cần thiết khác trong các mô cơ quan.
Collagen trên thực tế có thể tự tổng hợp thông qua sử dụng các axit amin từ các loại thực phẩm giàu protein. Tuy nhiên, để tăng cường lượng collagen và các lợi ích khác cho cơ thể thì bạn cần phải bổ sung thêm chúng.
Cơ chế hoạt động
Collagen bắt nguồn từ các nguyên bào sợi, là những tế bào da chuyên bào chuyên biệt nằm dưới lớp trung bì có chức năng sản xuất ra các sợi, mà chủ yếu là Collagen, elastin (protein giúp da có thể hồi phục lại).

Khi nhận được tín hiệu sản xuất collagen, nguyên bào sợi sẽ kết hợp những thành phần acid amin cần thiết lại dưới xúc tác của Vitamin C và một số chất khác tổng hợp ra những tiểu đơn vị collagen ngắn được gọi là procollagen.
Sau khi được chuyển ra khỏi tế bào sợi, những đơn vị này kết hợp với nhau để tạo thành những phân tử collagen hoàn chỉnh, tiếp tục xoắn lại trở thành các loại sợi, xây dựng kết cấu cho làn da, xương, mạch máu, cơ bắp và nhiều bộ phận khác.
Adenine là gì?
Adenine là một nucleobase (một dẫn xuất purine). Nó là một trong bốn nucleobase trong axit nucleic của DNA được biểu thị bằng các chữ cái G – C – A – T. Ba chất khác là guanine, cytosine và thymine. Các dẫn xuất của nó có nhiều vai trò khác nhau trong sinh hóa bao gồm hô hấp tế bào, ở dạng cả adenosine triphosphate (ATP) giàu năng lượng và các đồng yếu tố nicotinamide adenine dinucleotide (NAD), flavin adenine dinucleotide (FAD) và Coenzyme A.
Adenine có công thức hóa học là C5H5N5 và cấu trúc là một vòng cacbon-nitơ kép. Nó là một purine, vì vậy nó được tạo thành từ một vòng năm cạnh và một vòng sáu cạnh, mỗi vòng chứa nitơ, được hợp nhất với nhau. Phân tử adenin có thể được phân biệt với các nhân purin khác bằng nhóm amin gắn với cacbon của chúng ở vị trí 6. Ngoài ra còn có một nhóm hydro gắn với nitơ ở vị trí 9.
Adenine có công thức hóa học là C5H5N5
Nó cũng có có chức năng tổng hợp protein và là thành phần hóa học của DNA và RNA. Hình dạng của adenine bổ sung cho thymine trong DNA hoặc uracil trong RNA.
Điều chế sản xuất
Sự chuyển hóa purine liên quan đến sự hình thành của adenine và guanine. Cả adenine và guanine đều có nguồn gốc từ nucleotide inosine monophosphate (IMP), lần lượt được tổng hợp từ một ribose phosphate có sẵn từ trước thông qua một con đường phức tạp sử dụng các nguyên tử từ axit amin glycine, glutamine và axit aspartic, cũng như coenzyme tetrahydrofolat.
Phương pháp sản xuất adenine ở quy mô công nghiệp được công nhận hiện nay là một dạng sửa đổi của phương pháp formamide. Phương pháp này làm nóng formamide trong điều kiện 120 độ C trong bình kín trong 5 giờ để tạo thành adenin. Phản ứng được tăng lên nhiều về số lượng bằng cách sử dụng phốtpho oxyclorua (photphoryl clorua) hoặc photpho pentachlorua làm chất xúc tác axit và điều kiện ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím.
Sau khi 5 giờ trôi qua và dung dịch formamide-phospho oxychloride-adenine nguội bớt, nước được đưa vào bình có chứa formamide và bây giờ là adenine đã tạo thành.
Cơ chế hoạt động
Adenine tạo thành adenosine, một nucleoside, khi gắn vào ribose, và deoxyadenosine khi gắn vào deoxyribose, và nó tạo thành adenosine triphosphate (ATP), thúc đẩy nhiều quá trình trao đổi chất tế bào bằng cách truyền năng lượng hóa học giữa các phản ứng.
Sản phẩm liên quan











