Ngộ độc opiat: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị
Chất gây nghiện gây khoái cảm cho người sử dụng. Sau một thời gian sẽ dẫn đến tình trạng quen thuốc, tức là phải dung nạp liều cao mỗi ngày và nguy hiểm cho tính mạng khi dùng quá nhiều.
Ma tuý thuộc nhóm opiat
Loại ma túy được sử dụng phổ biến hiện nay là ma túy thuộc nhóm thuốc opiat, trong đó phổ biến nhất là heroin. Người sử dụng các chất gây nghiện này sẽ tăng dần liều lượng để đạt cảm giác “thỏa mãn”. Điều này dẫn đến ngộ độc và tử vong. Nhóm opiat được chia làm 2 loại:
- Opiat: Các chất làm từ nhựa của cây thuốc phiện.
- Opioid: Là những hợp chất mà tất cả các tác động trực tiếp đều bị Naloxone đối kháng. Opioid được phân loại thành dạng tự nhiên, tổng hợp và bán tổng hợp.
![Ngộ độc opiat: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị 1](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/ngo_doc_opiat_nguyen_nhan_chan_doan_va_dieu_tri_1_cc8bac656d.jpg)
Nguyên nhân ngộ độc opiat
Bệnh nhân ngộ độc cấp tính opiat phải nhập viện có thể khi tiêm, hút, hít hoặc qua da. Những người nghiện ma túy thường bị ngộ độc vì dùng quá liều hoặc tái nghiện sau khi đã cai nghiện.
Trên thực tế, tình trạng ngộ độc thường gặp là do tăng liều lượng để tạo khoái cảm. Tuy nhiên, cũng có khả năng cố ý dùng quá liều để tự tử hoặc đầu độc cũng cần được xem xét. Trẻ em có nguy cơ bị ngộ độc khi uống thuốc điều trị thuộc nhóm opiat này do. Những người không nghiện ma túy có thể bị ngộ độc đường uống vì cố ý tự tử hoặc do tai nạn điều trị.
Chẩn đoán ngộ độc opiat
Lâm sàng
Suy nhược hệ thần kinh trung ương
Đây là một trong 3 tiêu chuẩn đánh giá tình trạng ngộ độc thuốc phiện. Các dấu hiệu bao gồm từ lờ đờ đến hôn mê. Các chất có tác dụng kích thích hỗn hợp như pentazocine và butorphanol gây kích động hoặc thậm chí loạn thần do bị kích thích các thụ thể sigma. Hiếm khi tình trạng co giật do dùng quá liều opiat tinh chế, ngoại trừ gặp ở trẻ em ngộ độc propoxyphen và meperidine.
Đồng tử nhỏ
Đây là dấu hiệu lâm sàng điển hình thứ hai ở nạn nhân ngộ độc thuốc phiện và gặp ở hầu hết các trường hợp. Đồng tử thu nhỏ là do tác động lên hệ thần kinh phó giao cảm của đồng tử.
Suy hô hấp có thể gây tử vong
Đây là đặc điểm thứ ba khi ngộ độc opiat, ban đầu sẽ giảm tần số thở rồi giảm biên độ thở. Khi ngộ độc nặng hơn, nhịp thở rất chậm.
Khi bệnh nhân bị phù phổi cấp sẽ xuất hiện triệu chứng thở nhanh, gấp. Ở những bệnh nhân này, oxy máu giảm, tăng CO2 trong máu và toan hô hấp. Phù phổi cấp không hiếm gặp khi bị ngộ độc heroin do hít, hút, chích. Đây là một biến chứng nghiêm trọng khi dùng quá liều ma túy.
Việc chụp phim X-quang có thể phát hiện các biểu hiện trong vòng 24 giờ. Triệu chứng là có nhiều bọt màu hồng, ran nổ ở cả 2 phổi nhưng không thấy rõ các tĩnh mạch cổ nổi. CVP bình thường hoặc thấp cho thấy kích thước bóng tim bình thường. Tổn thương phổi rất đa dạng từ mờ khu trú ở một phổi đến thâm nhiễm kinh điển ở cả hai bên, đặc biệt ở vùng phổi và đáy phổi.
Do tác dụng ức chế thần kinh trung ương của opiat. Do đó cần chẩn đoán viêm phổi khi quan sát thấy các biểu hiện lâm sàng và trên phim X-quang. Chẩn đoán này có thể khó chẩn đoán lúc đầu, nhưng nó cần được xem xét nếu các tổn thương trên phim chụp X-quang không biến mất sau 48 giờ điều trị.
Ảnh hưởng đến hệ tim mạch
- Làm tăng sức chứa của hệ tĩnh mạch lên mạch (Nhờ đó morphin có tác dụng hữu hiệu trong điều trị phù phổi cấp do huyết động) dẫn đến giảm huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương. Dấu hiệu này thường không được nhận thấy rõ ràng khi bệnh nhân nằm.
- Không có ảnh hưởng đến sự co bóp và dẫn truyền của cơ tim, ngoại trừ propoxyphen, meperidine hoặc pentazocine. Ngoài ra, loạn nhịp tim thường do thiếu oxy hơn là do thuốc phiện (ngoại trừ propoxyphen).
- Ngoại trừ trường hợp quá liều propoxyphen, hãy tình trạng hạ huyết áp đáng kể do các nguyên nhân khác như nhiễm độc đồng thời với các chất khác, sốc giảm thể tích, sốc phản vệ.
Tác dụng lên hệ tiêu hóa
- Opiat ban đầu kích thích cơ quan thụ cảm hóa học ở hành tủy, gây buồn nôn. Nhưng dùng những liều tiếp theo sẽ ức chế vùng này và sau đó rất khó gây nôn.
- Giảm nhu động ruột đồng thời tăng trương lực cơ vòng. Tiếng nhu động giảm và có thể chướng bụng. Do bị lưu lại lâu trong dạ dày nên có thể xảy ra hiện tượng hấp thu thuốc chậm và thải trừ thuốc qua đường tiêu hóa chậm sau khoảng 27 giờ uống.
![Ngộ độc opiat: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị 2](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/ngo_doc_opiat_nguyen_nhan_chan_doan_va_dieu_tri_2_da7f67bc42.png)
Các biến chứng có thể xảy ra khi ngộ độc nhóm thuốc phiện
Biến chứng tim mạch: Sốc, trụy tim mạch, ngộ độc heroin do tiêm chích có thể dẫn đến sốc. Tình trạng này có thể do suy tim cấp toàn thân hoặc do tiêm chất độc vào hệ tuần hoàn.
Các biến chứng tim mạch khác: Loạn nhịp tim do quinin và rung nhĩ kịch phát, kéo dài khoảng QT, viêm nội tâm mạc, ngừng tim do tăng kali trong máu, kéo dài tâm trương, phình mạch dạng nấm.
Các biến chứng khác của nhiễm độc opiat cấp: Bao gồm bí tiểu do tăng trương lực cơ thắt, suy thận, hạ đường huyết, hạ thân nhiệt.
Cận lâm sàng
Nếu nhập viện: Lấy mẫu máu xét nghiệm công thức máu, khí máu động mạch, glucose, ure, creatinin, GPT, GOT, CK, điện giải, barbiturat, thuốc an thần khác, kháng nguyên và kháng thể của virus viêm gan.
Lấy nước tiểu để xét nghiệm opiat. Nồng độ heroin trong máu không có ý nghĩa lâm sàng nhưng có thể phát hiện trong vòng 36 giờ.
Cấy máu toàn thân nếu có dấu hiệu thuyên tắc phổi nhiễm trùng hoặc viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Nếu có dấu hiệu chấn thương sọ não, nên chụp X-quang sọ, chụp CT sọ não hoặc làm điện não đồ.
Cách điều trị
Nguyên tắc điều trị ngộ độc opiat là hồi sức hô hấp và dùng thuốc giải Naloxone là các bước cơ bản.
Điều trị hồi sức hô hấp
Hồi sức hô hấp sử dụng bóp bóng oxy, đặt máy thở nội khí quản. Cần theo dõi từ 24 đến 48 giờ. Dùng thuốc vận mạch nếu bị tụt HA. Theo dõi chặt chẽ quá tải thể tích và chú ý đến việc đánh giá lượng dịch vào ra CVP. Khi đã ổn định, có thể chụp X-quang phổi.
Đặt nội khí quản để điều trị phổi cấp. Điều trị bằng thuốc vận mạch nếu tụt HA. Không truyền dịch quá nhiều cho bệnh nhân phù phổi. Nếu tình trạng ổn định, hãy chụp X-quang phổi và kiểm tra các khí trong máu. Liên tục theo dõi điện tâm đồ. Dùng oxy và có thể thở PEEP.
Sử dụng thuốc giải độc Naloxon
Naloxone là thuốc giải độc đặc hiệu có tác dụng ức chế 4 loại thụ thể của thuốc phiện. Sử dụng Naloxone ngay lập tức thường cứu bệnh nhân khỏi ngộ độc opiat.
![Ngộ độc opiat: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị 3](https://cdn.nhathuoclongchau.com.vn/unsafe/800x0/filters:quality(95)/https://cms-prod.s3-sgn09.fptcloud.com/ngo_doc_opiat_nguyen_nhan_chan_doan_va_dieu_tri_3_74caf91115.jpeg)
Trên đây là những thông tin về tình trạng ngộ độc opiat. Nếu gặp phải các triệu chứng như cho dù là nguyên nhân tự tử, do thuốc điều trị hay sử dụng ma tuý cũng nhanh chóng đưa đến bệnh viện để cấp cứu trước khi xảy ra trường hợp đáng tiếc.
Cao Hiếu
Nguồn tham khảo: Tổng hợp