Na rừng
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Na rừng
Tên gọi khác: Nắm cơm, Ngũ vị nam, Dây xưn xe,…
Tên khoa học: Kadsura coccinea (Lem) A. C. Smi (K.chinensis Hance). Ngũ vị – Schisandraceae.
Theo Y học cổ truyền, Na rừng có 2 loại là Na rừng đỏ và Na rừng trắng. Có một vài sự khác biệt nhỏ giữa 2 loại trên.
Na rừng đỏ: Loại quả chín sẽ có màu đỏ, mùi thơm rất đặc trưng, loại quả này có giá trị dược liệu hơn Na rừng trắng.
Na rừng trắng: Khi chín màu vàng nhạt, khe múi hơi đỏ, có giá trị dược liệu ít hơn.
Đặc điểm tự nhiên
Na rừng là cây dây leo, thân cứng, hóa gỗ, màu nâu đen, cành nhẵn. Lá mọc so le, phiến dày, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 10 – 12cm, rộng 4 – 5cm, gốc tròn, đầu nhọn, mặt trên mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt, có nhiều chấm trắng nhỏ.

Hoa khác gốc, mọc đơn độc ở kẽ lá; lá bắc dễ rụng; bao hoa gồm những phiến mập hình trứng, xếp thành 2 – 3 vòng, càng vào trong, phiến càng lớn hơn, màu trắng thơm, điểm vàng nâu ở đầu phiến; hoa đực có nhiều nhị mọc trên một cán ngắn, hoa cái có các lá noãn xếp rất sít nhau. Hoa thường có màu đỏ tím hay vàng.
Quả to, hình cầu, rất giống hình dáng tương tự như quả na nhưng kích thước to gấp đôi hoặc gấp ba lần quả na ta, khi chín màu vàng hoặc đỏ hồng, nhiều múi, múi rất to, dễ tách thành từng múi nhỏ, có mùi thơm nhẹ, ăn được.
Mùa hoa: Tháng 5 – 6, mùa quả: Tháng 8 - 9.
Phân bố, thu hái, chế biến
Loài na rừng phân bố ở vùng nhiệt đới hay nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á. Ở Việt Nam, có 4 loài mọc rải rác ở vùng núi từ 600m đến 1500m, ở các tỉnh Lào Cai, Hà Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn… ở phía nam thấy ở Lâm Đồng. Trên thế giới cây phân bố ở một số khu vực núi cao trong vùng có khí hậu nhiệt đới hay á nhiệt đới của Ấn Độ, Lào và Nam Trung Quốc.
Na rừng thuộc loài cây cây leo quăn, thường xanh, ưa khí hậu ẩm mát đặc biệt ở vùng nhiệt đới núi cao. Cây ưa sáng hơi chịu bóng, thường mọc ở ven rừng hay rừng đá vôi. Cây ra hoa quả hàng năm nhưng số lượng hoa quả trên cây không nhiều. Ở vùng rừng quốc gia tam đảo có một khóm na rừng, mọc gần đường đi nên hay bị chặt phá, số cành non nhiều (ước tính dưới 1 năm tuổi) nên không thấy có hoa quả.
Na rừng có thể xếp vào nhóm cây thuốc tương đối hiếm gặp ở Việt Nam, cần chú ý bảo vệ.

Rễ Na rừng có thể thu hái và bào chế thuốc quanh năm.
Sau khi thu hái gốc cây Na rừng, mang về rửa sạch đất cát. Thái thành từng lát mỏng như Kê huyết đằng mang đi phơi nắng đến khi thật khô.
Bộ phận sử dụng
Vỏ rễ vỏ thân thu hái quanh năm, phơi khô.
Rễ và quả là bộ phận dùng làm thuốc của Na rừng.

Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Vaseline là một tá dược thân dầu được dùng khá phổ biến vào ngành công nghiệp mỹ phẩm và dược phẩm. Thành phần chính của vaseline là petroleum Jelly - một hợp chất có dạng đặc, sệt bao gồm sáp tự nhiên và dầu khoáng bổ trợ cho nhau, tạo thành lớp phủ lên trên bề mặt của da. Chính nhờ đặc tính này mà vaseline được xem là một trong những phương pháp giúp chữa lành vết thương khi bị bỏng và sưng tấy ngoài da.

Vaseline được cấu tạo từ hỗn hợp các hydrocarbon no rắn, lỏng (gồm hydrocarbon mạch nhánh và không phân nhánh) và được tinh chế từ dầu mỏ. Bên cạnh đó còn có một số ankan mạch vòng và các hydrocarbon thơm.
Có hai loại vaseline gồm vaseline trắng và vaseline vàng. Vaseline trắng tính chất mềm, màu trắng trong, nhiệt độ nóng chảy là từ 38-56°C, trong khi đó vaseline vàng thì mềm, màu vàng hoặc vàng xám, nhiệt độ nóng chảy trong khoảng 38-56°C. So với vaseline thì loại vàng thường trung tính hơn.
Vaseline tan được trong benzen, carbon disulfide, cloroform, ether, hexane cũng như phần lớn những loại dầu dễ bay hơi; tuy nhiên chất này lại không tan trong aceton, ethanol nóng và ethanol lạnh (95%), glycerin và nước.
Vaseline có đặc tính nhờn quánh, trơn, mềm nên rất thích hợp trong các chế phẩm thuốc mỡ.
Marigold là gì?
Cúc vạn thọ là loại cây thảo mọc đứng, cao 0,6-1m, phân nhánh thành bụi có cành nằm trải ra. Lá cúc vạn thọ xẻ sâu hình lông chim, các thuỳ hẹp, dài, nhọn, khía răng cưa. Đầu hoa toả tròn, rộng 3 - 4cm hay hơn, mọc đơn độc hay tụ họp thành ngù; lá bắc của bao chung hàn liền với nhau; hoa màu vàng hay vàng cam, màu lông gồm 6 - 7 vẩy rời nhau hoặc hàn liền nhau. Hoa ở phía ngoài hình lưỡi nhỏ xoè ra, hoa ở phía trong hình ống và nhỏ.
Quả bế có 1 - 2 vẩy ngắn., cây ra hoa vào mùa đông cho tới mùa hạ. Calendula officinalis (Cúc vạn thọ) thuộc họ thực vật có tên Asteraceae hay Compositae. Những cánh hoa nhỏ được thu hoạch và làm khô vì nhiều tính chất dùng để làm thuốc. Mặc dù có rất nhiều loài hoa cúc vàng (marigold flowers) được trồng trên khắp thế giới, nhưng Calendula (cúc vạn thọ) được dùng để làm thuốc nhiều nhất. Nó có nguồn gốc ở Ai Cập và một phần của Địa Trung Hải nhưng bây giờ đã phát triển ở mọi châu lục, thường nở trong những tháng nóng của năm (từ tháng 5 đến tháng 10 ở Bắc bán cầu).

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tinh chất hoa cúc vàng (marigold flowers extract) chứa nhiều thành phần hoạt tính, bao gồm các chất chống oxy hoá và dầu dễ bay hơi. Cúc vạn thọ chứa chất chống oxy hóa dưới dạng flavonoid và carotenoids. Ở cánh hoa có nhiều chất chống oxy hóa và các axit béo như axit calendric và axit linoleic. Ở lá của cúc vạn thọ chứa lutein và beta-carotene, có chức năng chống oxy hóa mạnh mẽ.
Điều chế sản xuất
Một số nghiên cứu đã phát triển nhũ tương dầu/nước, sử dụng dầu Cúc vạn thọ (Calendula officinalis L) và rượu béo etoxyl hóa làm chất hoạt động bề mặt. Giá trị HLB cần thiết cho dầu cúc vạn thọ được xác định là 6,0. Các chất hoạt động bề mặt được liên kết trong các cặp ưa béo/ưa nước. Các chất hoạt động bề mặt ưa béo là Ceteth ‐ 2 và Steareth ‐ 2 và các chất hoạt động bề mặt ưa nước là Steareth ‐ 20, Ceteareth ‐ 20, Ceteareth ‐ 5 và Ceteth ‐ 10. Để xác định các pha tinh thể lỏng, các nhũ tương được phân tích bằng kính hiển vi ánh sáng phân cực. Độ ổn định vật lý được đánh giá bằng phương pháp lưu biến và phân tích tiềm năng zeta. Tất cả các nhũ tương đều có cấu trúc tinh thể lỏng dạng phiến. Kết quả cho thấy loại chất hoạt động bề mặt này có thể tạo ra tinh thể lỏng trong hệ thống, với sự khác biệt nhỏ về bề ngoài, ảnh hưởng đến độ ổn định vật lý, theo các phương pháp đã áp dụng.
Việc phân lập được thực hiện bằng cách chiết xuất dung môi tuần tự của T. patula những bông hoa. Một mẫu gồm 600g nguyên liệu thực vật đã được nghiền thành bột khô được chiết bằng 1,2-dichloroethane trong thiết bị Soxhlet trong 48 giờ cho đến khi mất màu. Phần còn lại sau quá trình chiết tách dichloroethane được tái chiết xuất bằng etanol (tỷ lệ dung môi/chất thực vật 1: 5) để phân lập các hợp chất có độ phân cực cao hơn.
Các dung môi được làm bay hơi trong chân không ở 40°C để tạo ra chất chiết thô dicloroetan và etanol. Tiếp tục tách các hợp chất riêng lẻ khỏi dịch chiết dicloetan được thực hiện bằng sắc ký cột trên cột silica gel với hệ dung môi cloroform-hexan. Quá trình rửa giải các phân đoạn từ cột được bắt đầu bằng hexan với sự gia tăng thêm hàm lượng cloroform trong hệ thống. Sự rửa giải với 3% cloroform trong hexan cho hợp chất 1. Hợp chất 2 có trong phần được rửa giải từ cột với 5% cloroform trong hexan.
Dịch chiết etanol được tách trên cột silica gel bằng cách rửa giải với dicloroetan/metanol bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC) để xác định đặc điểm sơ bộ của các phân đoạn. Quá trình rửa giải được bắt đầu với dichloroethane với sự gia tăng từng bước sau đó của hàm lượng metanol trong hệ thống.
Rửa giải với metanol 2, 3, 5, 7 và 10% trong dicloroetan tạo ra các phần tương ứng là 1, 2, 3, 4 và 5. Sắc ký lại của phân đoạn 2 trên cột Sephadex LH-20 với metanol 2% trong cloroform với sự tách TLC tiếp tục tạo ra hợp chất 2 cũng được tìm thấy trong dịch chiết dicloetan. Hợp chất 3 thu được bằng cách sắc ký lại phân đoạn 5 trên cột silica gel được rửa giải bằng metanol 8% trong cloroform và tiếp tục được tinh chế trên cột polyamit bằng cách rửa giải bằng etanol trong nước.
Quá trình phân tách TLC được thực hiện bằng các tấm silica gel Merck (Đức). Tách các hợp chất ưa béo được thực hiện trong hệ dung môi của dichloroethane-methanol (9: 1) và chloroform-methanol (9: 1). Các hợp chất phân cực hơn từ chiết xuất etanol được tách ra trong hệ dung môi của cloroform/metanol/nước (26: 14: 3).
Các sắc ký đồ được kiểm tra dưới ánh sáng UV ở bước sóng 254 và 360 nm, trước và sau khi sử dụng thuốc thử nhuộm để phát hiện flavonoid. Các flavonoid được phát hiện dưới dạng các đốm vàng lộ ra sau khi nung nóng các tấm được phun bằng dung dịch nhôm clorua etanol 1%. Các hợp chất khác được phát hiện bằng cách phun các dung dịch axit sunfuric 20%. Sau khi nung nóng các tấm phun đến 100°C, các hợp chất được tiết lộ dưới dạng các đốm có sắc thái từ xanh lam đến xanh lục, tùy thuộc vào các hợp chất cụ thể.
Cơ chế hoạt động
Cúc vạn thọ Pháp (Tagetes patula L.) được sử dụng rộng rãi trong y học dân gian, đặc biệt để điều trị các rối loạn liên quan đến viêm. Tuy nhiên, cơ chế tế bào của hoạt động này cần được nghiên cứu thêm. Trong một số nghiên cứu tiềm năng của các hợp chất T. patula để làm giảm bớt căng thẳng oxy hóa trong các tế bào T lymphoblastoid Jurkat ở người bị thách thức với hydrogen peroxide. Chiết xuất thô của hoa cúc vạn thọ và các phân đoạn tinh khiết có chứa flavonoid patuletin, quercetagetin và quercetin và các dẫn xuất của chúng, cũng như carotenoid lutein, được đưa tiếp xúc với các tế bào Jurkat được thử thách với 25 hoặc 50 μ M H 2 O 2.
Hydrogen peroxide gây ra stress oxy hóa trong tế bào, biểu hiện là tạo ra các gốc superoxide và peroxyl, giảm khả năng tồn tại, chu kỳ tế bào bị bắt và tăng cường quá trình chết rụng. Sự căng thẳng đã được giảm bớt nhờ các thành phần cúc vạn thọ thể hiện khả năng loại bỏ gốc rễ cao và tăng cường hoạt động của các enzym chống oxy hóa liên quan đến việc trung hòa các loại oxy phản ứng.
Phần flavonoid giàu quercetin và quercetagetin cho thấy hoạt tính bảo vệ tế bào cao nhất, trong khi patuletin ở liều cao có tác dụng gây độc tế bào liên quan đến khả năng chống ung thư của nó. T. patulacác hợp chất tăng cường sản xuất interleukin-10 (IL-10) chống viêm và chống oxy hóa trong tế bào Jurkat. Cả khả năng loại bỏ gốc rễ trực tiếp và kích thích các cơ chế bảo vệ tế bào có thể làm nền tảng cho các đặc tính chống viêm của hoa cúc vạn thọ.
Chiết xuất ethanol từ hoa Calendula officinalis L. thể hiện tác dụng chống viêm thông qua việc ức chế các cytokine gây viêm (IL-1β, IL-6, TNF-α và IFN-γ), và nó đã được đề xuất để ức chế COX-2 thông qua ức chế gen enzym và tổng hợp prostaglandin sau đó.
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Đạm trúc diệp.
Tên khác: Cỏ lá tre, Cỏ lông lợn, Nhả mạy phẻo, Co tạng pầu, Mác pang pầu.
Tên khoa học: Lophatherum gracile Brongn thuộc họ Lúa (Poaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Đạm trúc diệp là một loại cây cỏ sống lâu năm, có rễ phình thành củ và nhiều nhánh cứng. Thân cây cao từ 0.6 đến 1.5 mét, mọc thẳng đứng và có đốt dài. Lá mềm, hình mác dài và nhọn, có chiều dài khoảng 10 đến 15cm và chiều rộng 2 đến 3cm. Các lá phía trên thường ít lông, mặt dưới lá nhẵn, cuống lá mảnh và liền với bẹ dài, ôm lấy thân cây. Hoa mọc thành chuỗi thưa, có độ dài từ 15 đến 45cm, với những bông nhỏ dài khoảng 7 đến 12mm. Quả có hình dạng thoi dài, đạt khoảng 4mm.
Phân bố, thu hái, chế biến
Loài cây này có nhiều dạng và phân bố rộng rãi trong nước ta, đặc biệt là ở những vùng rừng thưa hoặc đồi cỏ. Ngoài ra, nó cũng được tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản và Malaysia.
Thường vào tháng 5-6, cuối mùa hoa, người ta hái toàn bộ cây về và cắt bỏ rễ con, sau đó chia thành từng bó nhỏ để phơi hay sấy khô. Thuốc thường bao gồm cả rễ con và đôi khi cả cụm hoa.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận được sử dụng làm thuốc của đạm trúc diệp là rễ hoặc lá.

Glycyrrhiza glabra là gì?

Liquorice (tên gọi phổ biến ở nước Anh) hay Licorice (tên gọi phổ biến ở nước Mỹ) là tên thường gọi của cây cam thảo Glycyrrhiza glabra, một loài thực vật có hoa thuộc họ đậu Fabaceae, từ rễ có thể chiết xuất ra một loại hương liệu có vị ngọt, thơm.
Cây cam thảo Glycyrrhiza glabra là một loại cây họ đậu lâu năm thân thảo có nguồn gốc từ Tây Á, Bắc Phi và Nam Âu. Glycyrrhiza glabra được sử dụng làm hương liệu trong bánh kẹo và thuốc lá, đặc biệt ở một số nước Châu Âu và Tây Á.
Chất chiết xuất từ cây cam thảo đã được sử dụng trong thảo dược và y học cổ truyền.
Mùi hương của rễ cây cam thảo đến từ sự kết hợp phức tạp và đa dạng của các hợp chất, trong đó nhựa cây an xoa chiếm tới 3% tổng số chất bay hơi. Phần lớn vị ngọt trong cam thảo đến từ glycyrrhizin, một chất có vị ngọt gấp 30–50 lần độ ngọt của đường.
Cơ chế hoạt động
Chiết xuất từ cây cam thảo Glycyrrhiza glabra có chứa Glycyrrhizic acid hoặc GZA. GZA được tạo ra từ một phân tử Glycyrrhetinic acid và hai phân tử Glucuronic acid. Các chất chiết xuất từ rễ của cây Glycyrrhiza glabra được gọi là chiết xuất cam thảo, rễ ngọt và chiết xuất glycyrrhiza. Glycyrrhiza glabra mọc ở châu Âu và Tây Á. Khi dùng đường uống, sản phẩm của axit glycyrrhetic được tìm thấy trong nước tiểu người trong khi GZA thì không. Điều này cho thấy Glycyrrhetic acid được hấp thụ và chuyển hóa trong ruột ở người. GZA bị vi khuẩn thủy phân thành Glycyrrhetic acid trong ruột.
B-White là gì?
B-White là hợp chất bao gồm nhiều chất hóa học bao gồm: Purifiled water, niacinamide, glycerin, boron nitride, cetearyl alcohol, ceteareth-2, ceteareth 25, glycyrthlza glabra extract, butyrospermum parkii argania spinosa kenerol, persea gratissima oil, glycolic acid, polysorbate 80, allantoin, alpha arbutin...
B-White là một nguyên liệu mỹ phẩm giúp trắng da có khả năng ức chế quá trình tăng sinh hắc sắc tố melanin của tế bào. Từ đó những sản phẩm chứa B-White giúp cải thiện các vùng da bị đen sạm, sẫm màu, làn da kém sắc.
Trong hoạt chất trắng da B-White có chứa hai hoạt chất liên quan sự hình thành sắc tố là arbutin và albatin. Hai chất trên giúp ngăn chặn đồng thời điều chỉnh các hắc sắc tố ở tầng biểu bì của da nên làm sáng, đều màu các vùng da bị đen sạm, tối màu, và dưỡng trắng da.
Nguyên liệu mỹ phẩm, hoạt chất trắng da B-White có khả năng ức chế trung tâm hoạt động MITF - nơi điều khiển ezyme Tyrosinase sản sinh ra sắc tố tối màu melanin để từ đó ngăn chặn các tác nhân gây nám, tàn nhang và sạm da, da tối màu,…
Điều chế sản xuất B-White thế nào?
Nguyên liệu mỹ phẩm trắng B-White này có thể làm được điều nhờ vào công nghệ siêu thẩm thấu Ecogel. Ecogel là công nghệ đã đạt được chứng chỉ Ecocert với ưu điểm nổi bật là làm tăng khả năng thâm nhập và dẫn truyền các hoạt chất này vào sâu trong các tế bào da nhằm nâng cao mức độ hiệu quả của sản phẩm một cách ưu việt, nhanh chóng và rõ rệt.
Cơ chế hoạt động B-White ra sao?
Ta biết rằng sự thâm, sậm, tăng sức tố da liên quan đến một chất có tên gọi melanin hiện diện trên da. Quá trình hình thành chất này được miêu tả cụ thể như sau. Ban đầu enzyme Tyrosinase chuyển Tyrosin thành Melanin. Sự tổng hợp Melanin tạo ra sắc tố da. Và các hạt sắc tố được vận chuyển đến các tế bào sừng dọc theo các tua. Bên trong các tế bào sừng, Melanin lắng đọng thành các chắn bao quanh nhân của tế bào. Tại đây, Melanin được xem như là một chắn hấp thụ và phản chiếu tia UV. Do đó, DNA trong các tế bào da được bảo vệ dưới sự chống tia UV hiệu quả nhất. Từ đó ngăn chặn các tác nhân gây nám da, đen sạm da, da tối màu,…
Ức chế trung tâm hoạt động MITF: MITF được xem như yếu tố gốc rễ của nguyên nhân gây sạm da, đen da.
Ức chế Enzyme Tyrosinase dẫn đến việc giảm sự sinh ra của tế bào Melanosome hay còn gọi là tế bào biểu bì hắc tố.Kéo theo đó là sự giảm sản sinh ra sắc tố tối màu Melanin.

Enzymes là gì?
Enzyme (hay còn gọi là men) là tên gọi của chất xúc tác sinh học có protein là thành phần cơ bản, được tạo thành từ các tế bào sinh vật. Enzyme tồn tại trong cơ thể con người, động vật và cả thực vật, hay bất cứ nơi nào tồn tại sự sống thì đều tồn tại enzyme.

Trong cơ thể, enzyme có tác dụng làm tăng tốc độ phản ứng hóa học, liên kết và biến đổi cấu trúc của các phân tử nhằm phục vụ cho nhiều hoạt động khác nhau như hô hấp, tiêu hóa, chức năng cơ và thần kinh. Cụ thể là:
- Với hệ tiêu hóa, enzym giúp cơ thể phá vỡ các phân tử phức tạp thành các phân tử đơn giản hơn như glucose, để sử dụng làm năng lượng.
- Enzyme trợ giúp quá trình sao chép DNA mỗi lần tế bào phân chia bằng cách tháo cuộn DNA và sao chép thông tin.
- Trong cơ thể, gan có chức năng phân hủy các chất độc với sự hỗ trợ của nhiều loại enzym khác nhau.
Trong những điều kiện nhất định thì enzym mới hoạt động hiệu quả, tốt nhất là vào khoảng 37°C. Dưới mức nhiệt độ này, tuy enzym vẫn hoạt động nhưng chúng hoạt động chậm hơn rất nhiều.
Cũng giống vậy, tùy thuộc vị trí của các enzym trong cơ thể, chúng chỉ có thể hoạt động trong một khoảng pH nhất định. Chẳng hạn, ở độ pH 7,5 thì các enzym trong ruột sẽ hoạt động được tốt nhất, trong khi đó ở độ pH 2, các enzym trong dạ dày hoạt động tốt nhất vì dạ dày có tính axit hơn nhiều.
Các enzyme sẽ thay đổi hình dạng gây khó khăn trong việc liên kết với cơ chất nếu nhiệt độ quá cao; môi trường quá axit hoặc quá kiềm.

Cơ thể chúng ta chứa hàng ngàn loại enzyme, điển hình là một số enzym dưới đây:
-
Lipase có vai trò giúp tiêu hóa chất béo tại ruột;
-
Amylase giúp chuyển hóa tinh bột thành đường;
-
Maltase giúp chuyển hóa đường maltose thành glucose. Maltose được tìm thấy trong các loại thực phẩm như khoai tây, mì ống và bia;
-
Trypsin giúp chuyển hóa protein thành các axit amin. Trypsin được tiết ở trong ruột non;
-
Lactase là enzym cũng được tìm thấy ở ruột non, giúp chuyển hóa lactose thành glucose và galactose;
-
Acetylcholinesterase giúp phân hủy chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine trong dây thần kinh và cơ;
-
Helicase là loại enzyme tháo xoắn DNA;
-
DNA polymerase giúp tổng hợp DNA từ deoxyribonucleotide.
Có thể nói, nhờ có enzyme mà cơ thể chúng ta chuyển hóa tối đa dinh dưỡng thu được từ thức ăn nạp vào hàng ngày. Chúng ta sẽ hạn chế được tình trạng chậm tiêu sau khi ăn, nuôi dưỡng cơ thể hiệu quả hơn.
Điều chế sản xuất Enzymes
Enzyme tiêu hóa và enzyme chuyển hóa là ai loại enzyme chính được cơ thể người có thể tạo ra; trong đó các loại enzyme tiêu hóa được tiết ra trong tuyến nước bọt, dạ dày, tuyến tụy và ruột non giúp cơ thể tiêu hóa thực phẩm.
Trong khi đó, các loại enzyme chuyển hóa lại được sản sinh trong các tế bào, giúp cơ thể tổng hợp năng lượng và sử dụng năng lượng - yếu tố giúp con người có khả năng hít thở, suy nghĩ, di chuyển…
Cơ chế hoạt động của Enzymes
Enzym đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe chúng ta bởi sự có mặt của chúng vô cùng cần thiết cho việc duy trì sự sống hàng ngày.

Dù đã có nhiều nghiên cứu được các nhà khoa học tiến hành song cho đến nay vẫn còn nhiều điều về enzym chưa thể giải đáp cũng như chưa giải thích được enzyme trong các tế bào được hình hình theo cơ chế nào. Chỉ biết rằng, rất nhiều enzyme được bản thân sinh vật tự sản sinh ra để đáp ứng nhu cầu của cơ thể mà thôi.
Số lượng enzym trong cơ thể chúng ta phải tính đến hàng ngàn, cụ thể là có hơn 5.000 loại enzyme mang đến 25.000 tác dụng khác nhau. Mọi hoạt động trong cơ thể chúng ta, từ hấp thụ đến tiêu hóa, hay như các cử động chân tay, suy nghĩ cũng đều được các enzym điều khiển.
Để dễ hình dung về cơ chế hoạt động của Enzyme trong cơ thể, chúng ta có thể theo dõi qua công thức sau:
E + S → ES → P + E
Trong đó:
- E là Enzyme -Chất xúc tác;
- S là cơ chất (Substrate) – Các hoạt chất chịu tác động của Enzyme;
- ES là phức hợp Enzyme - Cơ chất;
- P là sản phẩm (Product).
Như vậy, công thức cho chúng ta thấy cơ chế hoạt động (xúc tác) của enzyme có 3 giai đoạn:
-
Giai đoạn thứ nhất: Enzyme kết hợp với cơ chất bằng liên kết yếu tạo thành phức hợp Enzyme - Cơ chất (ES) không bền nhờ hình thành nhiều liên kết đặc biệt là liên kết hydrogen. Sự liên kết này làm thay đổi cấu hình không gian của cơ chất làm thay đổi động năng cũng như thế năng, kết quả là làm cho phân tử cơ chất trở nên linh hoạt hơn, nhờ đó tham gia phản ứng dễ dàng.
-
Giai đoạn thứ hai: Xảy ra sự biến đổi cơ chất dẫn tới sự kéo căng và phá vỡ các liên kết đồng hóa trị tham gia phản ứng.
-
Giai đoạn thứ ba: Enzyme xúc tác lên cơ chất tạo thành sản phẩm, còn enzyme được giải phóng ra dưới dạng tự do.
Beta glucan là gì?
Beta-glucan là một dạng Polysaccharide không đồng nhất của phức hợp Glucose polyme. Đây là chất xơ hòa tan có từ thành tế bào của vi khuẩn, nấm, nấm men, vỏ yến mạch, lúa mạch.

Từ những năm 1960, các nhà khoa học đã phát hiện và bắt đầu nghiên cứu hoạt chất này. Câu chuyện về Beta-glucan bắt đầu từ việc nghiên cứu Zymosan, một loại thuốc được sử dụng khắp châu Âu để kích thích miễn dịch, là hỗn hợp các thành phần từ thành tế bào nấm men bao gồm Protein, Lipid, Polysaccharide. Trong đó, Beta-1,3/1,6 D-glucan chính là loại Polysaccharide có tác dụng chính kích thích miễn dịch của loại thuốc này. Hoạt tính của Beta-glucan dựa vào cấu trúc phân tử, kích thước, tần số phân nhánh, sửa đổi cấu trúc, hình dạng và độ hòa tan. Những Beta-glucan có hoạt tính sinh học thường có trọng lượng phân tử lớn.
Sau này, hàng triệu nghiên cứu về Beta-glucan được thực hiện trên khắp thế giới và ứng dụng rộng rãi trong dược phẩm cho cả người và động vật. Theo các nghiên cứu khoa học, Beta-glucan chống lại các khối u lành tính hay ác tính, bệnh nhiễm khuẩn một cách hiệu quả… Có nhiều dạng Beta-glucan như (1,3/1,4), (1,3/1,6), trong đó Beta-glucan (1,3/1,6) có tác dụng lên hệ miễn dịch mạnh nhất và được sử dụng cho các sản phẩm hỗ trợ điều trị ung thư.
Beta-glucan có thể ngăn cơ thể hấp thụ Cholesterol từ thức ăn. Chúng cũng có thể kích thích hệ thống miễn dịch bằng cách tăng các hóa chất ngăn ngừa nhiễm trùng. Tổ chức FDA (Mỹ) cho phép các sản phẩm có chứa ít nhất 750mg Beta-glucan để giảm nguy cơ mắc bệnh tim.
Thành phần này cũng được sử dụng cho nhiều bệnh khác như bệnh chàm và bệnh tiểu đường, nhưng không có đủ bằng chứng khoa học để cho các công dụng này.
Điều chế sản xuất
Có hai cách để chiết xuất Beta-glucan gồm phương pháp hóa học và sinh học. Phương pháp hóa học để tách chiết Beta-glucan sử dụng các dung dịch kiềm và Acid. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là làm cho Beta-glucan bị lẫn nhiều tạp chất, phá vỡ cấu trúc, dẫn đến làm giảm hoạt tính sinh học của phân tử Beta-D-glucan. Ngoài ra, quá trình tách chiết còn thải ra nhiều sản phẩm phụ gây ô nhiễm môi trường.
Trong khi đó, phương pháp sinh học sử dụng Enzyme để tách chiết Beta-glucan. Nhiệm vụ của các Enzyme là chiết xuất Beta-1,3/1,6-D glucan bằng cách loại bỏ Protein, Lipid và một số loại Polysaccharide trong thành tế bào nấm. Phương pháp Enzyme có ưu điểm là bảo toàn được cấu trúc nguyên bản của Beta-1,3/1,6-D glucan nên giữ nguyên hoạt tính sinh học của hoạt chất này. Sử dụng Enzyme còn thân thiện với môi trường vì giảm thiểu các chất thải gây ô nhiễm.
Cơ chế hoạt động
Mặc dù là một chất xơ hòa tan nhưng Beta-glucan không được tiêu hóa mà lại làm chậm quá trình vận chuyển thức ăn trong ruột. Kết quả, Carbohydrate được hấp thụ chậm hơn, dẫn đến lượng đường trong máu ổn định hơn. Ngoài ra, Beta-glucan mang theo Cholesterol khi di chuyển chậm qua đường tiêu hóa.
Chlorella là gì?
Chlorella là một chi của tảo lục đơn bào, có dạng hình cầu, đường kính khoảng 2-10 μm, không có tiên mao. Nhờ sắc tố quang hợp chlorophyll -a và b trong lục lạp mà Chlorella có màu xanh lá cây đặc trưng.
Thông qua quang hợp nó phát triển nhanh chóng chỉ cần lượng khí carbon dioxit, nước, ánh sáng mặt trời, và một lượng nhỏ các khoáng chất để tái sản xuất.

Có hơn 30 loài khác nhau, nhưng hai loại – Chlorella Vulgaris và Chlorella pyrenoidosa – được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu được biết đến hiện nay. Tảo lục chlorella được bổ sung thông qua các sản phẩm bổ sung dưới dạng uống (do chlorella có thành tế bào cứng chúng ta không thể tiêu hóa) để phát huy được hết những lợi ích của nó.
So với hầu hết các loại rau khác, tảo lục chlorella chứa nhiều chất diệp lục hơn nên nó có thể mang lại những lợi ích nhất định cho sức khỏe. Chất đạm, vitamin A, vitamin C, vitamin E, vitamin B6 và vitamin B12, thiamin, riboflavin, niacin, folate và axit pantothenic là những thành phần dinh dưỡng của tảo chlorella. Ngoài ra, nó còn chứa phốt pho, canxi, magie, kẽm.
Có nhiều dạng chế phẩm bổ sung tảo lục chlorella: Dạng viên nang, viên nén, bột. Tảo lục chlorella vừa được sử dụng như một chất bổ sung dinh dưỡng vừa được sử dụng làm nhiên liệu diesel sinh học.
Điều chế sản xuất chlorella
Tảo lục có thể được nuôi trồng trong nhà, nhưng nguồn nước ngọt tự nhiên tinh khiết trong các hồ lộ thiên sẽ cho phép chlorella hấp thụ tối đa ánh sáng mặt trời, giúp thúc đẩy việc sản sinh C.G.F trong quá trình quang hợp.
Sau khi thu hoạch, tảo lục được lọc rửa nhiều lần bằng phương pháp ly tâm để bảo đảm độ tinh khiết.
Để phá vỡ thành tế bào của chlorella, giúp cơ thể con người dễ dàng hấp thu nguồn dưỡng chất, người ta có thể dùng phương pháp hóa học, nhiệt hay enzyme. Tuy nhiên, sử dụng áp lực với quy trình DYNO®-Mill sẽ có hiệu quả cao nhất.
Sau khi được khử trùng và sấy khô, chlorella được chế biến thành dạng bột và viên để đưa đến tay người sử dụng.

Cơ chế hoạt động của chlorella
Chlorella có chứa nguồn protein, chất béo, carbohydrate, chất xơ, diệp lục, vitamin và khoáng chất tốt. Nó có thể hoạt động như một chất chống oxy hóa và giúp giảm cholesterol máu cao.
Ceramide là gì?
Ceramide được biết đến là một trong ba loại lipid tham gia cấu tạo lớp màng trên bề mặt da. Chất này chiếm 40-50% lipid ở lớp ngoài cùng của da – còn gọi là lớp sừng (số % còn lại là cholesterol và các acid béo tự do).
Có vai trò thiết yếu đảm bảo khả năng hoạt động của hàng rào bảo vệ da (lớp màng Hydrolipid) và duy trì độ ẩm cần thiết của da, Ceramide có thể nói là một trong những thành phần quan trọng quyết định đến vẻ đẹp của làn da.

Tham gia cấu tạo làn da, tuy nhiên Ceramide theo thời gian sẽ mất dần đi. Bên cạnh đó, tuổi tác cùng những ảnh hưởng từ ánh nắng mặt trời cũng khiến sự sản sinh ceramide tự nhiên trên da bị giảm sút. Hậu quả là làn da chúng ta mất nước và độ ẩm trở nên khô hơn, nếp nhăn xuất hiện, kích ứng hoặc mẩn đỏ. Sử dụng ceramide trong chăm sóc da thời điểm này để khôi phục đáng kể lượng ceramide bị giảm sút.
Cơ chế hoạt động của Ceramide
Khi chúng ta dùng sản phẩm bôi ngoài da, Ceramide sẽ bắt chước các chất béo có trong da, nhanh chóng hấp thụ vào bề mặt da, lấp đầy những “vết nứt” do thiếu hụt. Ceramide hoạt động ở lớp da trên cùng (lớp biểu bì), đồng hành cùng hàng rào bảo vệ da.
Mọi loại da đều có thể phù hợp để sử dụng sản phẩm có chứa Ceramide.
Butylated Hydroxytoluene là gì?
Butylated hydroxytoluene là một hợp chất hữu cơ lipophilic, tan kém trong nước nhưng có thể tan trong chất béo.
Butylated hydroxytoluene tồn tại ở dạng tinh thể, màu trắng, không mùi. Hóa chất này chủ yếu được sử dụng như một chất chống oxy hóa phụ gia thực phẩm trong các sản phẩm có chứa chất béo, dầu; đồng thời nó cũng được dùng rất phổ biến trong mỹ phẩm và dược phẩm.

Butylated hydroxytoluene còn được dùng trong điều trị mụn do dậy thì hoặc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Ngoài ra, trong một số trường hợp viêm loét butylated hydroxytoluene còn có thể dùng trực tiếp trên da nhờ cơ chế phá hủy lớp biểu bì bên ngoài của các tế bào virus. Mầm bệnh được ngăn chặn, không có cơ hội phát triển, ký sinh.
Điều chế sản xuất Butylated Hydroxytoluene
Butylated hydroxytoluene về mặt hóa học vẫn là một dẫn xuất của phenol. Trong tự nhiên, thực vật phù du, tảo xanh và ba loại vi khuẩn lam khác nhau có khả năng tạo ra butylated hydroxytoluene.
Butylated hydroxytoluene cũng có thể được tổng hợp nhân tạo. Người ta tiến hành điều chế bằng phản ứng của p-cresol (4-methylphenol) với isobutylene (2-methylpropene) xúc tác bởi axit sulfuric:
CH3(C6H4)OH + 2CH2 = C(CH3)2 → CH3)3C)2CH3C6H2OHCH3(C6H4)OH ((CH3)3C)2CH3C6H2OHCH3(C6H4)OH + 2CH2 = C(CH3)2 → H3)3C)2CH3C6H2OH
Ngoài ra, BHT được lấy từ 2,6-di-tert-butylphenol hydroxymethylation hoặc aminomethylation trong phản ứng thuỷ phân. Approximately 4 M kg/y là sản phẩm.

Cơ chế hoạt động của Butylated Hydroxytoluene
Tương tự như cơ chế tự tổng hợp của vitamin E, butylated hydroxytoluene cũng tạo cơ thế hoạt động như thế để ngăn ngừa quá trình oxy hóa diễn ra thông qua việc nhường một nguyên tử hydro – chất chuyển đổi các gốc peroxy thành hydroperoxide.
Butylated hydroxytoluene còn được đánh giá cao như một chất liên hợp với những chất chống oxy hóa khác.
Green tea là gì?
Green Tea (Trà xanh) có nguồn gốc từ Trung Quốc và Ấn Độ, đã được tiêu thụ và ca ngợi vì lợi ích sức khỏe của nó trong nhiều thế kỷ trên toàn cầu, nhưng gần đây mới trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ.
Trà là thức uống được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới sau nước. Tuy nhiên, 78 phần trăm trà được tiêu thụ trên toàn thế giới là màu đen và chỉ khoảng 20 phần trăm là màu xanh.
Tất cả các loại trà, trừ trà thảo mộc, đều được ủ từ lá khô của bụi Camellia sinensis. Mức độ oxy hóa của lá quyết định loại trà.
Green tea được làm từ lá chứa ôxy hóa và là một trong những loại trà ít được chế biến. Do đó, nó chứa nhiều chất chống oxy hóa, nhất và các polyphenol có lợi.
- Green tea đã được sử dụng trong y học cổ truyền Ấn Độ và Trung Quốc.
- Có rất nhiều loại green tea khác nhau có sẵn.
- Green tea có thể giúp ngăn ngừa một loạt bệnh bao gồm cả ung thư.
Điều chế sản xuất
Hiện nay các phương pháp chiết xuất các hợp chất catechin từ chè xanh - hay còn gọi là polyphenol chè xanh đƣợc áp dụng rộng rãi ở Trung Quốc và trên thế giới.

Dựa trên tính chất hóa học đặc trƣng của catechin là các hợp chất phân cực, hay gặp trong chè xanh dưới dạng các glycosid dễ tan trong nước nóng và các dung môi hữu cơ có độ phân cực cao như ethanol, methanol, hoặc hỗn hợp của chúng với nước nên người ta thường chọn các dung môi này để chiết các catechin ở giai đoạn đầu tiên.
Kết quả sàng lọc hoạt tính chống ôxy hóa của các dịch chiết cũng cho thấy khi chiết chè xanh bằng các dung môi phân cực cho các sản phẩm có hoạt tính mạnh hơn so với khi chiết bằng các dung môi có độ phân cực yếu như n-hexane, ete dầu hỏa, ether ethylic, hay hỗn hợp của ether ethylic với chloroform, aceton, ethyl acetate [59-61]. Mặc dầu vậy, trong dịch chiết tồn tại một lượng lớn các hợp chất không mong muốn bị chiết cùng với catechin, thêm vào đó các glycosid cũng bị thủy phân khi sử dụng dung môi chiết là dung dịch nước axit.
Các dung môi phân cực yếu, lại có đặc tính ưu việt hơn khi tiến hành tinh chế các dịch chiết của dung môi phân cực. Phần lớn các catechin có phân tử lượng thấp và các aglycon đều bị hòa tan trong các dung môi này và hầu hết các hợp chất này đều có tính chống ôxy hóa cao.
- MAE: Phương pháp chiết có hỗ trợ viba. Dung môi Ethanol/nƣớc (1:1, v/v), tỷ lệ dung môi/nguyên liệu là 20/1. Thời gian tác dụng của viba trong 4 phút và ngâm tĩnh 90 phút ở 20°C.
- UE: Phương pháp chiết có hỗ trợ siêu âm. Dung môi Ethanol/nước (1:1, v/v) tỷ lệ dung môi/nguyên liệu là 20/1. Thời gian chiết 90 phút, nhiệt độ chiết 20 - 40°C.
- Soxhlet: Chiết hồi lưu trên phễu Soxhlet trong 45 phút, nhiệt độ chiết 85°C.
Nhìn chung, các phương pháp nêu trên đều có ưu điểm cho hiệu suất thu nhận catechin cao, phù hợp với các nước phát triển có trình độ kỹ thuật và công nghệ cao, tự chủ được các dung môi và hóa chất cơ bản. Đây cũng là các yếu tố kỹ thuật quan trọng để có giá thành sản phẩm thấp, đặc biệt có ý nghĩa đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ không có nguyên liệu chè phế loại.
Cơ chế hoạt động
- Tăng khả năng đốt cháy calo (sự sinh nhiệt);
- Khởi động khả năng đốt cháy chất béo (oxy hóa chất béo);
- Cung cấp sự bảo vệ chống oxy hóa mạnh mẽ;
- Green Tea cung cấp một loạt các chất dinh dưỡng cho sức khỏe, bao gồm mức độ EGCG cao hơn;
- EGCG là chất chống oxy hóa phong phú và mạnh mẽ nhất được tìm thấy trong các lá trà. Sản phẩm này có chứa 400mg EGCG cho liều dùng hàng ngày tối đa.
Casein là gì?
Casein là một dạng protein chủ yếu có trong sữa và là thành phần thiết yếu của phô mai. Sản phẩm thương mại của casein có màu vàng có mùi thơm dễ chịu. Nhưng thực tế, casein là một chất rắn màu trắng vô định hình, không vị và không mùi.
Hai loại protein bao gồm casein và whey có trong sữa. Trong đó, casein chiếm khoảng 80% hàm lượng protein trong sữa, và whey là 20% lượng protein còn lại. Trong sữa bò có chứa khoảng 3% casein. Sự khác biệt quan trọng giữa hai loại protein phổ biến này là: Whey protein là dạng tiêu hóa nhanh còn casein protein là dạng tiêu hóa chậm.

Casein là một nguồn protein hoàn chỉnh, cung cấp axit amin thiết yếu cơ thể cần cho sự phát triển. Casein chứa các protein riêng biệt khác nhau và các hợp chất có hoạt tính sinh học mang lại lợi ích sức khỏe.
Casein protein có 2 dạng chính là micellar casein và casein hydrolysate. Micellar casein là dạng casein phổ biến nhất đã được phân tách các tạp chất ra khỏi sản phẩm, được tiêu hóa chậm rãi. Casein hydrolysate là casein thủy phân. Đây là loại casein đã được trải qua quá trình thủy phân enzyme nhằm giúp hấp thụ vào cơ nhanh hơn.
Trong một muỗng bột casein protein 33g chứa khoảng 24g protein, 3g carbs và 1g chất béo, đồng thời cũng có thể chứa các vi chất dinh dưỡng khác nhau. Tuy nhiên, những chất này có thể thay đổi tùy thuộc vào từng sản phẩm và thương hiệu.
Điều chế sản xuất
Hoạt chất casein là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất phô mai. Các enzyme hoặc axit đặc biệt được thêm vào để làm cho casein trong sữa đông lại, hoặc chuyển sang trạng thái rắn. Có thể tách ra khỏi một chất lỏng. Chất lỏng đó là protein whey có thể rửa và sấy khô thành dạng bột để sử dụng trong các sản phẩm thực phẩm hoặc thực phẩm bổ sung. Có thể rửa và sấy khô phần sữa đông còn lại để tạo ra bột protein hoặc thêm vào các sản phẩm từ sữa, chẳng hạn như phô mai.
Cơ chế hoạt động
Hoạt chất casein là một loại protein sữa tiêu hóa chậm. Casein thường được dùng để bổ sung cho cơ thể giúp tăng cơ. Casein giải phóng axit amin từ từ, vì vậy thường được bổ sung trước khi đi ngủ để giúp phục hồi và giảm sự cố cơ trong khi ngủ.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng casein giúp thúc đẩy sự phát triển cơ bắp, cùng với rất nhiều lợi ích khác.
Thành phần chiết xuất casein được sử dụng trong xét nghiệm dị ứng.
Sản phẩm liên quan









